Danh sách bài viết

Cây Mè (Vừng) (Sesame)

Cập nhật: 13/10/2020

Tên tiếng anh/Tên khoa học: Sesame

Danh pháp khoa học: Sesamum indicum

Họ Vừng: Pedaliaceae.

Nguồn gốc: Mè (vừng) đã được gieo trồng rất lâu đời và được cho là có nguồn gốc từ Châu Phi (Ram và cộng sự, 1990), ở Á châu nhiệt đới, được trồng rộng rãi lấy quả. Thu hái cây vào tháng 6-8. Cắt toàn cây, phơi khô, đập lấy hạt rồi lại phơi khô. Khi dùng, đồ thật kỹ, phơi khô sao vàng. Ngoài ra còn ép lấy dầu vừng.

Tại Việt Nam: ĐBSCL diện tích mè đang có chiều hướng gia tăng nhanh bởi hiệu ứng của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở một số địa phương. Tại An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp và Long An ước có khoảng gần 7000 ha mè, chiếm 17% diện tích mè cả nước, trong đó Đồng Tháp và An Giang là 2 tỉnh có năng suất bình quân cao nhất 1,2 – 1,4 tấn/ha (Trần Thị Hồng Thắm, 2008; Nguyễn Thị Phương Lan, 2013).

Mô tả sơ bộ về cây mè (vừng)

Cây thảo có lông mềm, cao 60-100cm. Lá mọc đối, đơn, nguyên, có cuống, hình bầu dục, thon hẹp ở hai đầu. Hoa trắng, mọc đơn độc ở nách, có cuống ngắn. Quả nang kép dài, có lông mềm, có 4 ô mở từ gốc lên. Hạt nhiều, thuôn, vàng nâu hay đen, hơi bị ép dẹp, hầu như nhẵn, có nội nhũ.

Mô tả sơ bộ về cây mè

Thân, hoa, lá, quả, hạt cây mè (vừng)

- Thân cây mè (vừng):

Thân vừng thuộc thân thảo, thân thường có hình 4 cạnh. ở gân ngọn,hình dạng thân nhiều khi không rõ rệt.

Thân vừng cao khoảng 60-10cm.trong điều kiện hạn,thân có thể thấp hơn.cành mọc từ thân.vừng thường chỉ cò một cấp cành.

Sồ lượng cành /thân phụ thuộc chủ yếu vào giống,thường có khoảng 2-6 cành.cành moc từ các nách lá ở dưới,gần gốc .

Trên thân có thể có lông hoac không  có lông. Đây cũng là 1 đặc điểm để phân biệt giống.

Mầu sắc thăn có thể thay đổi từ xanh nhạt đến tím đỏ ,phần lớn các giống có màu xanh tối.

Chiều cao thân ảnh hưởng chủ yếu bởi giống, yếu tố khí hậu quang trọng nhất ảnh hưởng tới chiều cao thân là nhiệt độ, sau là ảnh hưởng của độ dài ngày.

- Lá cây mè (vừng):

Lá vừng là lá đơn, mọc cách trên thân, cành.

Hình dạng lá thay đổi tùy giống và ở vị trí khác nhau trên thân cũng có hình dạng khác nhau. Thông thường, lá ở vị trí thấp và gần gốc cành thường rộng bản và chia thùy. Cuống lá dài 1-5 cm. Phiến lá thường có lông và có chất nhầy.

- Rễ cây mè (vừng):

Rễ vừng là rễ cọc, rễ chính ăn sâu. Đồng thời hệ rễ bên của vừng cũng rất phát triển về bề ngang. Rễ vừng phân bố chủ yếu ở lớp đất 0-25 cm. Do có rễ cái ăn sâu nên vừng có khả năng chịu hạn rất tốt. Chiều sâu của rễ cái phụ thuộc nhiều vào độ ẩm đất. Ở đất khô, rễ có thể ăn sâu tới 1 m. Độ ẩm cao, rễ không ăn sâu được và vừng có thể bị chết nếu úng một thời gian ngắn do rễ bị thối.

- Hoa và quả cây mè (vừng):

Hoa vừng thuộc hình chuông. Cuống hoa ngắn. Tràng hoa gồm 5 cánh hợp thành hình chuông.

Đài hoa xanh, 5 cánh nông. Ống hoa dài 3-4 cm. Hoa mọc ở nách lá thành chum. Mỗi chum có 4-8 hoa. Nhị đực 5, nhưng có 1 bất dục. Bầu nhụy nằm trên đáy hoa, có 2 ngăn với nhiều vách giả.

Quả vừng là quả nang, chứa nhiều hạt. Mỗi chùm hoa, có thể mang được 4-5 quả.

Số lượng noãn của một quả thay đổi tùy giống, thường 4-6-8 noãn. Một số ít giống có thể có tới 10-12 noãn/quả.

Chất lượng quả cũng khác nhau tùy thuộc vào vị trí đóng quả. Thường quả ở vị trí thấm có hạt lớn hơn ở những vị trí cao.

Vỏ quả thường có lông và đó cũng là đặc điểm phân biệt giống.

- Hạt cây mè (vừng):

Hạt vừng là hạt song tử diệp. Cấu tạo hạt có nội nhủ.

Hạt vừng rất nhỏ, trọng lượng 1000 hạt thường biến động khoảng 4-4,5g.

Hạt dính vách quả thành 2 hàng 2 bên vách.

Số hàng hạt là đặc điểm giống cho nên được coi là một chỉ tiêu để phân biệt, đánh giá giống

Sự sinh trưởng phát triển của vừng

Thời gian sinh trưởng của vừng biến động 80-120 ngày trong điều kiện vụ xuân – hè ở Đồng bằng sông Hồng.

Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng của vừng kéo dài 40-60 ngày tùy thuộc ở giống và điều kiện ngoại cảnh. Điều kiện ngoại cảnh ảnh hưởng lớn nhất đến thời gian của thời kỳ này là nhiệt độ và độ dài ngày.

Trong thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng, quá trình sinh lý quan trong nhất của vừng là sự sinh trưởng của các bộ phận dinh dưỡng và sự phân hóa mầm hoa. Thời kỳ sinh trưởng sinh thực đặc trưng chủ yếu là sự ra hoa, lết quả, hình thành hạt và chín.

Vừng ra hoa trong khoảng thời gian 15-20 ngày.

Tốc độ sinh trưởng của quả rất nhanh, quả phát triển tối đa trong khoảng 9 ngày sau khi nở hoa mặc dù quả còn tiếp tục phát triển trong 24 ngày, trong thời kỳ chính. Trọng lượng khô của quả đạt tối đa vào khoảng ngày thứ 27 sau khi hoa nở. Quả chín hoàn toàn vào khoảng 35-40 ngày.

Nói chung, trên cây vừng, quả hình thành trước chín trước (thường là quả ở vị trí gần gốc) nhưng do vừng không tách quả khi chín vì có vỏ quả dày.

Thành phần dinh dưỡng trong hạt vừng

Hạt vừng chứa 40-55% dầu màu vàng, 5-8% nước, 20-22% protein, 5% tro (trong đó có 1,7 mg đồng) 1% canxi oxalat, 6,3-8,8% chất không có nitơ có các chất: sesamin, sesamolin, sesamol, pedaliin planteose, sesamose. Dầu Vừng chứa khoảng 12-16% acid đặc và 75-80% acid loãng, 0,9-1,7% phần không xà phòng hóa; khoảng 1% lexitin. Trong dầu có chất sesamin với tỷ lệ chừng 0,25-1% và chất sesamol là một phenol, chừng 0,1%.

Dược tính trong hạt vừng

Đông y coi vừng là loại thuốc, vừng đen có tên là “hắc ma chi”

+ Tính vị, tác dụng: Hạt có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tư bổ can thận, ích tinh huyết, nhuận tràng, thông sữa. Lá có vị ngọt, tính lạnh; có tác dụng ích khí, bổ não tuỷ, mạnh gân cốt, khỏi tê thấp.

+ Công dụng, chỉ định và phối hợp: Hạt Vừng được dùng làm thuốc chữa can thận không ổn định, đầu váng mắt hoa, bầm huyết, bí đại tiện, sữa xuống không đều. Lá Vừng nấu nước uống làm tăng tuổi thọ, nấu nước gội đầu thì tóc mượt đen, da mặt tươi nhuận; cũng dùng chữa rong huyết. Hoa vừng ngâm với nước đắp lên mắt làm mát mắt, dịu đau.

Tác dụng của hạt vừng

Hạt vừng được dùng làm thực phẩm cho người như ăn sống, rang ép dầu ăn, làm dầu thắp, làm bánh kẹo, bơ, magarin và làm thuốc. .. Vừng là loại hạt cho dầu ăn có chất lượng cao, ổn định, không bị trở mùi ôi.

Trên thế giới, dầu vừng được dùng trực tiếp trong nấu nướng hoặc ăn sống với rau và làm phụ gia trong công nghiệp thực phẩm như nước chấm, công nghệ dược liệu, mỹ phẩm, thuốc trừ sâu...

Nguồn: / 0

Đại dương hấp thụ 50% CO2 phát thải

Khoa học sự sống

Khoảng 50% tổng lượng khí CO2 do con người thải ra kể từ cuộc cách mạng công nghiệp đã hoà tan vào các đại dương của thế giới, ảnh hưởng xấu tới các sinh vật biển.

Mặt biển dâng cao

Khoa học sự sống

Các khoa học gia nói rằng các số liệu đo đạc do vệ tinh và máy bay cung cấp cho thấy rằng mặt biển đã lên cao trong 10 năm qua với tốc độ nhanh nhất trong vòng nửa thế kỷ nay. Theo các nhà nghiên cứu, nguyên nhân của hiện tượng này là việc cá

Hé lộ bí ẩn của loài cá lớn nhất thế giới

Khoa học sự sống

Các thẻ điện tử công nghệ cao gắn trên lưng cá mập voi - loài cá lớn nhất thế giới - đã tiết lộ hành trình và địa điểm kiếm ăn của chúng.

Chụp được hình ảnh con mực khổng lồ

Khoa học sự sống

Các nhà khoa học Nhật Bản đã thu được những bức ảnh đầu tiên của một trong các sinh vật bí ẩn nhất dưới đại dương sâu thẳm - con mực khổng lồ. Cho đến nay, thông tin duy nhất về hành vi của các sinh vật này - có chiều dài tới 18 mét - đều d

Nghiên cứu về sinh vật từng sống sâu dưới đại dương

Khoa học sự sống

Những sinh vật kỳ lạ sống tại môi trường sâu dưới biển đang được các nhà khoa học nghiên cứu, có thể cho biết về lịch sử tiến hoá khác với sự sống trên trái đất và mang lại dấu hiệu về khả năng tồn tại sự sống trên các hà

Phát hiện những sinh vật biển lạ

Khoa học sự sống

Nhóm các nhà khoa học Mỹ chuyên nghiên cứu những vùng biển sâu đã phát hiện tại vùng vịnh Mexico một số loài sinh vật biển, mà theo họ trước nay chưa hề được nhìn thấy. Nhờ trợ giúp của những camera chuyên dụng, c

San hô Việt Nam có thể so sánh với san hô thế giới

Khoa học sự sống

Với số lượng khoảng 400 loài san hô khác nhau thuộc 80 giống loài, 17 họ khác nhau, khu hệ san hô biển Việt Nam có thể so sánh với những vùng san hô đa dạng nhất trên thế giới.

Dự báo tình trạng các đại dương

Khoa học sự sống

Cung cấp cho toàn cầu những bản tin dự báo về tình trạng của các đại dương trong vòng 15 ngày, tương tự như đối với khí quyển: đó là tham vọng của dự án Mercator. Dự án Mercator đã được thành lập cách đây 10 năm bởi một nhóm nhà đại dươ

Phát hiện loài sâu biển mới

Khoa học sự sống

Một nhóm nhà khoa học Anh và Thụy Điển vừa phát hiện được một loài sâu biển mới trên xác một con cá voi tại Biển Bắc, trên lãnh hải của Thụy Điển.

Tìm hiểu về Hoa huệ biển

Khoa học sự sống

Hoa huệ biển (Endoxocrinus parrae) mang tên này do giống hệt một loài hoa bám dưới đáy đại dương. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu Mỹ, đây là một loài động vật da gai tương tự như loài nhím biển, có khả năng chạy trốn trướ