Cập nhật: 27/12/2017
DƯƠNG BÍCH HÀ
Tác giả bài viết đã nêu những nét khái quát về điệu Hò thuốc cá, là một điệu
Hò đặc sắc, thể hiện một cách chân thực, rõ nét cuộc sống lao động,
sinh hoạt, tâm tư tình cảm của người Nguồn ở vùng đất Quảng Bình.
Từ khóa: Dương Bích Hà, Nhạc cổ, Hò thuốc cá, người Nguồn.
Miền núi phía Tây Bắc huyện Minh Hóa tỉnh Quảng Bình có nhiều tộc người cùng sinh sống như tộc người Mày, Rục, Sách, Mã Liềng, A Rem (gọi chung là tộc người Chứt), và tộc người Nguồn (trước kia gọi là người bản địa Kẻ Sạt, Kẻ Xét, Kẻ Trem, Kẻ Pôộc bộ Việt Thường, nước Văn Lang). So với nhóm các tộc người trên, thì người Nguồn là tộc người có số lượng dân cư lớn nhất của huyện Minh Hóa. Do có nhiều tộc người như vậy, đã tạo cho huyện Minh Hóa có nhiều thể loại, bài bản dân ca phong phú, có thể kể ra một số làn điệu như điệu Lầm Khùa (Hát ru), Plờ cù môn (giao duyên) của người Khùa ở bản Cà Roòng (nay gọi là bản Hà Vi, xã Dân Hóa); điệu Tồn tá lôn(Hát ru), điệu Cà tơm tà lêngcủa người Sách, người Mày ở bản Bãi Dinh (xã Dân Hóa); Tan tá rùm (Hát ru) của người Rục ở bản Mò O Ồ Ồ (xã Thượng Hóa)… Điều rất dễ nhận thấy là số lượng các thể loại, bài bản dân ca của các tộc người nói trên rất ít, trong lúc đó, số lượng thể loại, bài bản dân ca của người Nguồn lại nổi trội hơn hẳn, đó là Đúm - Pí, Hát ru, Đồng dao, Hát Nhà trò, Hát Sắc bùa, Hát Kiều… và điệu Hò thuốc cá là một điệu Hò đặc sắc, thể hiện rõ nét cuộc sống lao động, sinh hoạt, tâm tư tình cảm của người Nguồn ở vùng đất này.
Điệu Hò thuốc cá có liên quan mật thiết đến lao động sản xuất, mang đậm nét riêng của người Nguồn. Cuộc sống của người Nguồn chủ yếu dựa vào săn bắt, phát rừng làm nương rẫy, đánh ong lấy mật. Thịnh hành nhất là nghề thuốc cá, người dân đi thuốc cá tập thể chứ không đi riêng lẻ. Mùa đông và mùa xuân thì họ kéo nhau đi từng đoàn lên rừng bới rễ cây tèng (loại cây thuộc họ dây leo, rễ thuộc dạng củ, có chứa độc tố), về đập dập ra, trộn với đất ướt, lấy bùn trát kín, ủ lại, rồi chất củi đốt xung quanh. Sau đó, họ mang ra suối, khe, tìm chỗ nào có nhiều cá nhất, rồi chọn một chỗ cao ở đầu suối, khe, lấy đá xếp vòng tròn để tạo thành một cái cối. Không như ở miền xuôi, hay ở một số vùng, miền khác, khi giã gạo (hay giã bánh), người ta thường dùng cối đá nhỏ, và chỉ có hai hoặc ba người thay nhau giã chày, người này giơ chày lên, người khác thả chày xuống, mà ở đây, người dân (cả nam và nữ) cùng giã một lúc, cùng giơ lên, cùng hạ xuống, nên tùy theo số lượng người giã thuốc càng đông thì họ xếp cối càng rộng. Xếp cối xong, họ lấy rễ cây tèng đã được ủ chín bỏ vào cối, rồi chặt những cây rừng thẳng, dài khoảng 1,5m, to vừa tay cầm, vát nhọn một đầu để làm chày giã thuốc. Họ giã cho nước rễ cây tèng chảy ra, hòa vào dòng nước, làm cho cá bị mờ mắt mà chết, nổi lên mặt nước để họ có thể bắt cá dễ dàng. Ngoài loại rễ cây tèng, người ta cũng dùng rễ cây hôi hôi và lá cây cơn cơn (mọc bên suối) để làm thuốc đánh cá, hai loại cây này thường được sử dụng vào mùa hạ, mùa thu, được lấy về sử dụng ngay chứ không ủ chín như rễ cây tèng. Có một điều đặc biệt là các loại cây có độc tố này chỉ làm cho riêng một số loài cá bị say, bị chết, nhưng lại vô hại đối với các loài thủy sản khác (như cá lóc, cá chạch, lươn, ốc…), kể cả con người khi ăn cá cũng không hề bị ảnh hưởng gì. Khi cá bị bắt hết, thì độc tố của rễ cây cũng không còn ảnh hưởng gì dòng nước nữa!
Để cho động tác giã thuốc thật nhịp nhàng, đều đặn, và để tạo không khí vui tươi, quên đi mệt nhọc, người ta cất lên tiếng hò. Đối qua, đáp lại, trải qua thời gian, nội dung của điệu Hò thuốc cá ngày càng phong phú:
Giã (đâm) tèng thì giã cho sòng
Để cho cá chết đầy sông đầy bờ
Giã (đâm) tèng thì giã cho sòng
Đến khi chia cá nhớ công đâm tèng
(Tiếng Nguồn:)
Tầm tèng thì tầm chò sòng
Tở cho cá chết lâm sông lâm bờ
Tầm tèng thì tầm chò sòng
Tếng khi xia cá nhớ công tầm tèng
Do Hò thuốc cá có đặc tính dễ hát, dễ thuộc, mang tính tập thể cao, có không khí rộn ràng… nên ai cũng có thể hò được cả. Chỉ cần có người xướng lên, và có người cùng hòa nhịp để xô, là người ta lập tức bị cuốn vào một cách tự nhiên, không e dè, câu nệ, và cũng từ điệu hò ban đầu, với nội dung chính gắn với công việc giã thuốc cá, dần dần, người ta còn đưa vào nhiều nội dung khác, xuất hiện thêm những dị bản khác, đó là đối đáp giao duyên nam nữ rất tình tứ (đã có nhiều trai thanh nữ tú mê câu hát “hôi lên” mà kết thành đôi lứa, thành vợ thành chồng):
Trời mưa nước chảy quanh hồi (đầu nhà)
Anh không lấy vợ ai đâm bồi anh ăn?
(Tiếng Nguồn:)
Tơi mừa dác chẳn quèng hôi
Èng khôồng lế cáy ài tầm pôi èng ằn?
Hay:
Chợ tình đôi lứa cùng nhau
Xe duyên chồng vợ tình sâu mặn nồng
(Tiếng Nguồn:)
Chợ tình tồi lưa cung nhàu
Xe duyên dôồng cấy tinh sầu mằn nông
và nghịch ngợm:
Lo chi cái việc đâm bồi
Nhún lên nhún xuống một hồi được ăn
(Tiếng Nguồn:)
Lò xì kẻ xuyện tầm pôi
Dún lền, dún xuống một hôi tược ằn
có lúc hờn dỗi:
Hát năm ba chuyện mà thôi
Chim trời, cá nước, ai kết đôi được giờ?
(Tiếng Nguồn:)
Hát dằm pà xuyện má thồi
Xìm trơi, cá dác, ài kết tồi tược chư?
cũng có lúc ví von, tự tin:
Trong đầm gì xấu bằng bèo
Mưa sa nước sỉa cũng trèo lên sen
(Tiếng Nguồn:)
Troòng tâm xì xấu păng peo
Mưa sa dác sẻ cũng treo lền sèn
Đó là tình yêu quê hương đằm thắm với lời mời gọi tha thiết:
Ai lên Minh Hóa quê mình
Chè xanh, mật ngọt, thắm tình quê hương
(Tiếng Nguồn:)
Ai tếng Mình Hóa quề mêng
Che xèng, mật ngót, thắm tinh quề hường
hay là sự yên bình, với những mơ ước đơn sơ:
Làng ta đi thuốc Vực Dài (địa danh)
Đến khi cá chết lấy gùi mà mang
(Tiếng Nguồn:)
Lang thà tì thuốc Vực Dai
Tếng khi cá chết lấy pài ma màng
Hoặc:
Chữ thập cải lại chữ thi
Làng ta đi thuốc năm ni được mùa
Chữ thập cải lại chữ thiên
Làng ta đi thuốc bình yên thọ trường
(Tiếng Nguồn:)
Chự thập cại lai chự thì
Lang thà tì thuốc nằm ni tược mùa
Chự thập cại lai chự thiền
Lang thà tì thuốc pinh yền thò trương
Trong Hò thuốc cá, người ta dùng cụm từ “hôi lên là hôi lên” để tất cả cùng xô, nên có khi, người ta cũng gọi Hò thuốc cá là “Hò hôi lên”; và do việc sử dụng các loại cây có độc tố để làm thuốc đánh cá, người ta muốn gọi ngắn gọn, nên Hò thuốc cá còn có tên gọi khác là “Hò thuốc” hoặc “Đi thuốc”.
Cũng như phần lớn các điệu Hò lao động ở các vùng, miền trong cả nước, Hò thuốc cá cũng có vế kể (một người) và vế xô(nhiều người). Lời ca của Hò thuốc cá sử dụng thể thơ lục bát (6/8), và khi hát, người ta có cách phổ thơ vào một điệu nhạc như sau: Cứ sau một câu lục - câu 6 (kể), người ta chen một câu xô trước khi vào câu bát - câu 8:
Câu Kể:
Câu Xô:
Trong quá trình hát câu 6, câu 8, người ta có thể thêm những tiếng đệm, hư từ, luyến láy, kết hợp với tuyến giai điệu mềm mại, lượn sóng, hình thành một bài hát trọn vẹn (xem bài Hò thuốc cá 1 và Hò thuốc cá 2 ở phần Phụ lục). Kiểu xử lý trên cũng được sử dụng trong bài Hò thuốc cá 3(xem ở phần Phụ lục).
Khác với cấu trúc của điệu Hò khoan Lệ Thủy (Quảng Bình) là câu kể thường dao động từ 6, 7 đến 8 từ, câu xô có lúc lên tới 9 từ, có lúc chỉ còn 3 từ. Ở bài Hò hụi(Cảnh Dương),câu kể dao động từ 5, 6 từ, câu xô lúc thì 4 từ, lúc thì 9 từ… (xem bài Hò hụi Cảnh Dương ở phần Phụ lục). Trong bài Hò thuốc cá, câu xô vẫn giữ số từ đều đặn (5 từ), nhưng câu kể thì số từ có thay đổi (câu kể đầu chỉ có 9 từ, câu kể sau lên tới 12 từ), tuy vậy, vẫn không làm thay đổi hay xáo trộn tốc độ hay nhịp giã của chày (xin xem bài Hò thuốc cá 1, 2, 3 ở phần Phụ lục).
Bài được hát ở điệu Sol Cung:
với trục chính là:
Tầm cữ của bài trong phạm vi quãng 6:
Với trục cố định như trên, trên cơ sở lòng bản, tùy theo lời ca, hoặc tâm trạng của người hát, có thể có thêm những luyến láy, tô điểm… phần nào làm cho cao độ của bài có sự thay đổi (tạo ra những dị bản), nhưng sự thay đổi đó không đáng kể, đây là điều đương nhiên, thường thấy trong các bài hát dân gian của người Việt.
Không giống với một số điệu Hò lao động (ở trên cạn) khác ở khu vực Bình Trị Thiên như Hò phơi xăm, Hò lĩa trâu, Hò kéo gỗ(Quảng Bình); Hò dô hậy, Hò đập bắp (Quảng Trị); Hò nện, Hò giã gạo (Huế); Hò thuốc cá có tiết tấu vừa phải, thậm chí còn thong thả nữa. Giai điệu của bài theo hình lượn sóng, mềm mại (như đã đề cập), ít có quãng nhảy xa, tạo cho Hò thuốc cá có sắc thái nhẹ nhàng, dung dị, nhưng không kém phần khỏe khoắn, rộn ràng, sinh động (điều này có thể là do câu xô có nốt Fa, với chức năng là âm tô điểm, và nốt Sol móc đơn liền kề nhau, ẩn chứa sự dứt khoát, vừa như thúc giục, thôi thúc, lại vừa dịu dàng, duyên dáng), làm cho tất cả những ai tham gia vừa có thể giã chày, vừa có thể hò mà không bị ảnh hưởng gì lắm đến sức khỏe cũng như công việc. Người ta có thể hò liên tục, không ngưng nghỉ với nhiều khổ thơ lục bát có những nội dung khác nhau, đến khi nào cá nổi lên, họ mới ngừng công việc đâm giã và hát hò để bắt cá.
Nhờ giai điệu đơn giản, lời ca mộc mạc, có không khí rộn ràng, dễ vận dụng với khổ thơ lục bát và với bất cứ nội dung nào, nên ngoài việc sử dụng điệu Hò thuốc cá trong việc đánh bắt cá, người Nguồn dần dần sử dụng làn điệu này trong các ngày lễ, ngày hội, Tết, cưới hỏi, đâm bồi, đập bắp, đắp đập thủy lợi [1], đặc biệt là trong lễ hội “Chợ Rằm tháng ba” (tổ chức vào ngày 14, 15 tháng Ba âm lịch hàng năm - lễ hội lớn nhất của huyện Minh Hóa). Lễ hội này có sức thu hút mọi người trong và ngoài huyện đến thưởng thức không khí lễ hội, với các trò chơi dân gian như đi cà khoeo, đánh đu, thể thao (bắn nỏ, ném xoay)…; văn hóa ẩm thực với đặc sản cơm pồi (bồi), ôốc (ốc) đực[2], chè xanh, mật ngọt… và điệu Hò thuốc cá luôn được cất lên trong suốt ngày lễ. Người ta thường có câu:
Chẳng thà đau ốm mà nằm
Không ai mà bỏ chợ Rằm tháng Ba!
(Tiếng Nguồn:)
Chẳng thà tâu ốm mà năm
Khôồng ai má lác chợ Răm thàng Pà!
Hay:
Trông cho đến Rằm tháng Ba
Mà đi cầu Bụt, hát ca thỏa lòng
(Tiếng Nguồn:)
Trôồng chò tếng Răm thàng Pà
Má ti cầu Pụt, hát cà thỏa long
Dần dần, điệu Hò thuốc cá không chỉ bó hẹp trong phạm vi của một vài xã lân cận huyện, mà còn lan rộng ra toàn huyện đến các xã như Dù Dèng, Kiên Trinh, Làng Mai (Hồng Hóa, Hóa Phúc, Hóa Thanh ngày nay), Cổ Liêm, Kim Bảng (Tân Hóa, Minh Hóa ngày nay), lên cả Thác Dài, Hát, Quyền (Trung Hóa, Thượng Hóa ngày nay)…
Hiện nay, Hò thuốc cá còn được đưa lên sân khấu ca nhạc hiện đại, đưa vào trong kịch sân khấu như vở kịch “Tiếng chày khuya” của Văn Tu, tham gia Hội diễn văn nghệ quần chúng của tỉnh Quảng Bình (1991); được sử dụng nhiều trong các cuộc thi Hát, Liên hoan dân ca của huyện cũng như của tỉnh. Câu lạc bộ dân ca của người Nguồn được thành lập, với mục đích vừa gìn giữ vốn cổ (trong đó có Hò thuốc cá), vừa truyền dạy các thể loại, bài bản dân ca cho thế hệ sau tiếp tục gìn giữ, dưỡng nuôi; vừa giới thiệu cho công chúng cả nước biết đến vùng đất hoang sơ nhưng lại có vốn dân ca cổ phong phú, đa dạng, và góp phần vào công việc giữ gìn bản sắc chung dân tộc của Việt Nam
Một số nhạc sĩ đã vận dụng nét đặc trưng của Hò thuốc cá để sử dụng trong các sáng tác của mình một cách sáng tạo, đó là các ca khúc Hội Rằm tháng Ba, Âm vang điệu hát quê tôicủa nhạc sĩ Minh Chiểu; Vấn vương Minh Hóa của nhạc sĩ Dương Viết Chiến; Đường về bản mới, Hò thuốc - biến tấu khúc của nhạc sĩ Lê Anh; Minh Hóa tình yêu bao la,Trở về cội nguồn(hòa tấu các nhạc cụ dân tộc) của nhạc sĩ Minh Đấu… Những ca khúc này cũng đã đạt được hiệu quả nhất định.
Ca khúc Em đi đâu? của nhạc sĩ Dương Bích Hà đề cập đến tình yêu đôi lứa ngọt ngào, đằm thắm. Tác giả sử dụng câu xô “Hôi lên là hôi lên” của điệu Hò thuốc cá, và thay đổi tiết tấu, làm cho ca khúc mang tính hiện đại, trẻ trung, nhưng vẫn giữ được nét mềm mại:
Ở câu kết, tác giả lặp lại câu xô ở tầm cữ cao, như là câu hỏi da diết, nồng nàn, ngân vang qua núi đồi trùng điệp:
Ca khúc Đừng về người ơi của Hà Lam là lời mời gọi nhẹ nhàng, tha thiết của cô gái Nguồn, mong mọi người hãy đến với quê hương mộc mạc, thủy chung của mình. Tác giả cũng sử dụng câu xô của Hò thuốc cá vào trong ca khúc:
và sử dụng motif trong vế đầu của câu sau (câu 8) trong bài Hò thuốc cá 3:
để đưa vào trong câu đầu của tác phẩm:
Làn điệu Hò thuốc cá là một nét văn hóa rất riêng của người Nguồn, phản ánh được tâm tư, khát vọng sống của đồng bào nơi đây một cách chân thực, sống động. Những giai điệu đơn sơ, mộc mạc cứ ngân nga, bay qua đồi núi trập trùng, vượt qua mưa nguồn thác lũ, thấm đẫm vào lòng người một sự tươi mới, dung dị, hồn nhiên; là một nét chấm phá trong bức tranh âm nhạc dân gian của vùng đất Quảng Bình đầy nắng gió… giai điệu ấy, câu ca ấy cứ vấn vương, vang vọng mãi với cuộc đời: “Đâm (ơ) Tèng (hơ) thì đâm (sòng) cho sòng. Hôi lên là hôi lên…”.
PHẦN PHỤ LỤC
HÒ THUỐC CÁ 1
Người hát:ĐINH THỊ PHƯƠNG ĐỐNG
Sưu tầm, ký âm:DƯƠNG BÍCH HÀ
HÒ THUỐC CÁ 2
Người hát:ĐINH THỊ PHƯƠNG ĐỐNG
Sưu tầm, ký âm:DƯƠNG BÍCH HÀ
HÒ THUỐC CÁ 3
Người hát:TRẦN KHÁNH NGUYÊN
Sưu tầm, ký âm:DƯƠNG BÍCH HÀ
HÒ KHOAN LỆ THỦY
(trích)
Người hát:Đội văn nghệ LỆ THỦY
Ký âm:DƯƠNG BÍCH HÀ
HÒ HỤI
(Cảnh Dương)
Người hát:PHẠM NGỌC THỨC
Sưu tầm, ký âm:DƯƠNG BÍCH HÀ
ĐỪNG VỀ NGƯỜI ƠI…
HÀ LAM
EM ĐI ĐÂU?
DƯƠNG BÍCH HÀ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Khi đắp đập thủy lợi ở Ba Nương, người ta hay sử dụng điệu Hò này nên có một số nhà nghiên cứu cho rằng điệu Hò thuốccácòn được gọi là Hò Ba Nương, người Nguồn không đồng tình với tên gọi này)…
[2]. Trong Rằm tháng Ba, tất cả ốc ở trên khe, suối đều là ốc đực, người dân ở đây giải thích rằng ốc là loài lưỡng tính, vào tháng Ba âm lịch, ốc đực phát triển mạnh nên dịp này chỉ có ốc đực, và cũng chỉ ở huyện Minh Hóa mới có hiện tượng này, còn ở các huyện lân cận không có, đây là điều đặc biệt mà không ai lý giải được!
Nguồn: / 0