Danh sách bài viết

Hồ Chí Minh với vấn đề dân sinh

Cập nhật: 27/12/2017

Nguyễn Đình Hòa(*)

Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một tư tưởng khoa học và đầy tính nhân văn của Hồ Chí Minh - tư tưởng về dân sinh. Trong quan niệm của Người, chủ nghĩa xã hội gắn chặt với vấn đề dân sinh, luôn coi trọng và thực hiện ngày càng tốt hơn vấn đề dân sinh. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng nêu rõ phương thức, biện pháp để giải quyết một cách hiệu quả vấn đề dân sinh. Đó là thực hành tiết kiệm, phát triển sản xuất, gắn phát triển kinh tế với chăm lo cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Những luận điểm sâu sắc của Người về dân sinh là sự thể hiện tập trung và thiết thực tư tưởng “lấy dân làm gốc”.

Ảnh tư liệu

Ảnh tư liệu

Những cá nhân kiệt xuất được người đời tôn vinh như những vĩ nhân chính là bởi ở họ luôn có những khát vọng cao cả và cống hiến hết mình vì hạnh phúc của con người, của nhân loại. C.Mác từng coi đấu tranh cho con người là niềm hạnh phúc lớn nhất của ông. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người "chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành (chúng tôi nhấn mạnh - N.Đ.H)"(1). Luận điểm này đã phản ánh một cách cô đọng, súc tích quan điểm của Hồ Chí Minh về dân sinh hạnh phúc. Người đã dành trọn cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của mình đấu tranh cho mục đích cách mạng đầy tính nhân văn - độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân. Với những hoài bão thiêng liêng cùng sự đấu tranh không ngừng nghỉ, hy sinh quên mình để hiện thực hoá lý tưởng đó, Hồ Chí Minh đã trở thành một biểu tượng cao cả, trường tồn trong lòng dân tộc Việt Nam và nhân loại tiến bộ.

Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, cách mạng Việt Nam muốn thành công không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản; rằng, do điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước và thời đại, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu chủ đạo - sợi chỉ đỏ xuyên suốt hai cuộc cách mạng đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là giành độc lập cho dân tộc, tự do, dân chủ cho nhân dân; trong đó, độc lập dân tộc là mục tiêu hàng đầu, là khát vọng mang tính phổ biến của các dân tộc thuộc địa, là điều kiện không thể thiếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng, nếu không giành được độc lập, tự do cho dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được.  

Bắt nguồn từ lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã luôn kiên trì độc lập dân tộc, coi đó là mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Người đã giải quyết vấn đề độc lập dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân - thực hiện độc lập dân tộc để tiến tới chủ nghĩa xã hội; gắn vấn đề dân tộc trong mối quan hệ biện chứng với vấn đề giai cấp và quốc tế; gắn cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc.

Với những quan điểm hết sức đúng đắn và sáng tạo về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, gần ba mươi năm sau Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, một cuộc cách mạng mới đã lần đầu tiên nổ ra và thành công ở một nước thuộc địa - Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nếu Cách mạng tháng Mười Nga lần đầu tiên chọc thủng hệ thống tư bản chủ nghĩa ở khâu yếu nhất của nó, tạo nên một sự kiện chính trị làm rung chuyển thế giới, thì Cách mạng tháng Tám đi tiên phong trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Như chúng ta đã biết, giải phóng con người, chăm lo cho con người có cuộc sống ngày càng đầy đủ hơn, hạnh phúc hơn luôn là sự trăn trở, đồng thời là mong muốn lớn nhất của Hồ Chí Minh. Song, với nhãn quan cách mạng và khoa học, Người hiểu rằng, muốn giải phóng con người, giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội thì trước hết dân tộc phải giành được độc lập. Nhưng, độc lập sẽ không có ý nghĩa nếu những nhu cầu của các cá nhân, gia đình và cộng đồng không được đáp ứng. Người khẳng định rằng, độc lập dân tộc phải gắn với tự do, dân chủ, ấm no, hạnh phúc của nhân dân; "nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì". Rằng, nếu "chúng ta giành được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói chết rét, thì tự do độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ"(2).

Vì vậy, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, với cương vị người đứng đầu Nhà nước dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu Đảng và Chính phủ phải cố gắng giải quyết thật tốt vấn đề dân sinh, trong đó tập trung thực hiện ngay những nhiệm vụ then chốt, đó là:

1. Làm cho dân có ăn.

2. Làm cho dân có mặc.

3. Làm cho dân có chỗ ở.

4. Làm cho dân có học hành.

Trên thực tế, ngay sau khi được thành lập, chính quyền cách mạng non trẻ đã phải đối diện với một loạt khó khăn to lớn, với "thù trong giặc ngoài", trong đó nạn đói được coi là một thứ giặc nội xâm nguy hiểm đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu con người. Trong điều kiện như vậy, cùng với những biện pháp tích cực khác để giữ vững thành quả của cách mạng, Người đã kêu gọi toàn dân thực hiện những biện pháp cần kíp, cấp bách, tức thì để kịp thời cứu dân thoát khỏi nạn đói. Đó là phong trào "nhường cơm sẻ áo", "lá lành đùm lá rách" để cùng chia sẻ những khó khăn. Bản thân Người đã nêu một tấm gương sáng về thực hành tiết kiệm, dành phần lương thực ít ỏi nhưng chan chứa tình người cho đồng bào bị đói.

Khi trả lời câu hỏi "chủ nghĩa xã hội là gì?", Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan niệm sâu sắc và khoa học nhưng lại rất giản dị và gần gũi như những lẽ phải thông thường mà ai cũng có thể hiểu và cảm nhận được.  Người cho rằng, chủ nghĩa xã hội là "... mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”(3), “... làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ”, “... tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng” và “... làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”. Người coi chủ nghĩa xã hội là "làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, người già không lao động được thì nghỉ", là "không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động"(4). Tựu trung lại, “chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”(5). Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, hạnh phúc của con người gắn với những biểu hiện rất cụ thể, thiết thực trong cuộc sống đời thường - có cơm ăn và áo mặc, được học hành, được chữa bệnh khi ốm đau, được nghỉ ngơi lúc tuổi già,... của quảng đại quần chúng nhân dân chứ không phải là những gì cao siêu và trừu tượng. Chính cách giải thích dễ hiểu và rất thiết thực của Người về chủ nghĩa xã hội đã tạo nên sức thuyết phục, cảm hoá mạnh mẽ mọi người lao động Việt Nam đang nung nấu khát vọng xây dựng một cuộc sống ngày càng đầy đủ và hạnh phúc.

Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là một xã hội luôn quan tâm và thực hiện ngày càng tốt hơn vấn đề dân sinh. Coi việc chăm lo cho nhân dân có đời sống vật chất đầy đủ, có đời sống tinh thần phong phú và lành mạnh là trách nhiệm cao nhất của Đảng và Nhà nước ta, Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm, Đảng và Chính phủ có lỗi. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người luôn được trân trọng, coi là thứ của cải, là vốn quý giá nhất của xã hội. Thực tế cho thấy, song song với nhiệm vụ tập trung mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, mở rộng sản xuất, Người đã đặc biệt quan tâm đến việc đáp ứng, thoả mãn những nhu cầu bức thiết của nhân dân, coi đó là một trong những công tác chủ đạo, căn bản và cần kíp của nhà nước dân chủ nhân dân. Dân dĩ thực vi thiên, nghĩa là dân lấy ăn làm trời. Vì vậy, làm thế nào cho dân có ăn, có mặc, được sung sướng và hạnh phúc luôn là nỗi trăn trở lớn nhất của Hồ Chí Minh, đồng thời là nhiệm vụ cốt lõi của cách mạng Việt Nam.

Việt Nam là một nước nông nghiệp và đại bộ phận dân cư là nông dân. Trước Cách mạng tháng Tám, người dân Việt Nam phải oằn lưng sống trong tình cảnh “một cổ hai tròng” - sự áp bức, bóc lột nặng nề của thực dân và phong kiến. Họ hoàn toàn không có tư liệu sản xuất, không có một "tấc đất cắm dùi". Chủ nghĩa Mác - Lênin đã từng chỉ ra rằng, chính vì không có hoặc bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất mà người lao động phải bán sức lao động của mình, trở thành kẻ làm thuê để mưu sinh, phải chịu sự bóc lột về kinh tế, áp bức về tinh thần và đè nén về thể xác của giai cấp thống trị. Vì vậy, biện pháp quan trọng hàng đầu và mang tính nền tảng để giải quyết vấn đề dân sinh ở Việt Nam chính là mang lại ruộng đất cho nông dân. Như chúng ta đã biết, bên cạnh độc lập dân tộc, một trong những thành quả to lớn và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khác mà cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đem lại cho người dân là người cày có ruộng. Thông qua cải cách ruộng đất, những người nông dân Việt Nam vốn bao đời nghèo đói nay được cách mạng trao cho quyền làm chủ ruộng đất - tư liệu sản xuất căn bản và quan trọng nhất để mưu sinh, để có cơm ăn áo mặc và sống một đời hạnh phúc.

Về kế sách lâu dài, Hồ Chí Minh chủ trương phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tích cực tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế. Như chúng ta đã biết, trên nền tảng hoà bình và độc lập, cần phải thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển. Đó là nhiệm vụ kinh tế quan trọng của miền Bắc nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế quốc gia phải tận dụng được những nguồn lực tự nhiên và con người để tạo nên sự phát triển mạnh mẽ, hướng đến tăng thu nhập và sự giàu có cho tất cả mọi công dân. Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, việc tập trung mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm... là vô cùng cần thiết. Các tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội, như ruộng đất, hầm mỏ, nhà máy,… phải thuộc quyền sở hữu của toàn dân. Nền kinh tế phải phát triển theo hướng công nghiệp hóa, đi lên sản xuất lớn có khả năng tạo ra năng suất cao nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.

Đề cao yêu cầu phát triển kinh tế như một mục tiêu quan trọng mang tính nền tảng trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, song Hồ Chí Minh không coi đó là nhiệm vụ duy nhất, không tuyệt đối hoá mục tiêu phát triển kinh tế; trái lại, Người còn rất chú trọng giải quyết các vấn đề xã hội, đặc biệt là vấn đề dân sinh. Quan điểm mang tính chỉ đạo trong tiến trình cải tạo và xây dựng xã hội mới của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, là phải tập trung hướng vào "làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm"(6). Theo đó, mọi đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ con người, hướng vào con người nhằm cải thiện và nâng cao từng bước đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; phải coi lợi ích và quyền hạn của nhân dân là trên hết; phải nhận thức và hành động theo nguyên tắc việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Đối với nhân dân, cần phải cố gắng thực hiện đời sống mới: tiết kiệm, vệ sinh và văn hoá. Mục đích của đời sống mới, như Hồ Chí Minh đã khẳng định, chính là làm sao cho nhân dân ta có đời sống vật chất ngày càng đầy đủ hơn, đời sống tinh thần ngày càng vui mạnh hơn.

Ngày nay, chúng ta thường thấy trên các diễn đàn quốc tế, trong các văn kiện về chiến lược phát triển, người ta hay nói đến phát triển bền vững, trong đó kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện các mục tiêu xã hội (con người) được coi như một sự lựa chọn phát triển ưu tiên và khôn ngoan nhất của các quốc gia. Xét ở một khía cạnh nào đó, theo chúng tôi, tư tưởng phát triển bền vững đã ít nhiều xuất hiện ở Hồ Chí Minh từ những năm 50 - 60 của thế kỷ XX. Thật vậy, sự kết hợp mục tiêu phát triển kinh tế với chăm lo đời sống cho con người luôn được Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng. Khi bước vào công cuộc công nghiệp hoá và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người chỉ đạo: "Ta phải tính cách nào, nếu cần có thể giảm bớt một phần xây dựng để giải quyết vấn đề ăn và mặc của quần chúng được tốt hơn nữa, đừng để cho tình hình đời sống căng thẳng quá. Nhà máy cũng cần có thêm, có sớm, nhưng cần hơn cả là con người, là sự phấn khởi của quần chúng. Làm tất cả cho con người. Làm cho quần chúng hiểu đúng chủ nghĩa xã hội hơn"(7). Xem xét luận điểm đó của Hồ Chí Minh từ quan điểm phát triển hiện đại - phát triển xã hội một cách bền vững và hài hòa, chúng ta thấy rõ, Người không chủ trương phát triển kinh tế bằng mọi giá, dù kinh tế là nền tảng để giải quyết các vấn đề khác của đời sống xã hội. Trái lại, khi xác định "dân là gốc nước" và đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển xã hội, Hồ Chí Minh quan niệm phải xử lý thật tốt mối quan hệ giữa chính sách phát triển kinh tế với chính sách phát triển xã hội, trong đó điều cốt lõi nhất là cùng với sự phát triển kinh tế, cần phải chăm lo một cách thoả đáng và thường xuyên các nhu cầu thiết yếu và cơ bản, bảo đảm cho người dân các lợi ích vật chất và tinh thần phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước. Thêm nữa, khi hướng vào giải quyết vấn đề dân sinh, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy ở con người tư cách động lực phát triển của xã hội. Theo đó, chăm lo cho con người cũng chính là thực hiện kế sâu bền gốc, tạo nền tảng cho sự phát triển vững chắc của xã hội.

Không chỉ có vậy, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra mối quan hệ chặt chẽ, hài hòa giữa xã hội và tự nhiên; hiểu rõ ý nghĩa và vai trò quan trọng không thể thay thế của môi trường sinh thái đối với sản xuất, đối với sự tồn tại và phát triển của con người. Chẳng hạn, Người chỉ ra rằng, nếu tài nguyên rừng bị cạn kiệt do hoạt động khai thác mang tính tước đoạt, bóc lột tự nhiên của con người sẽ dẫn đến những tác hại không thể lường hết: không còn gỗ để xây dựng nhà ở, mất nguồn nước, đất đai bị xói mòn, rửa trôi trở nên bạc màu không thuận lợi cho sản xuất: "Phá rừng thì dễ, nhưng gây lại rừng thì phải mất hàng chục năm. Phá rừng nhiều như vậy sẽ ảnh hưởng đến khí hậu, ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống rất nhiều”(8). Người phê phán một cách nghiêm khắc hiện tượng phá rừng, coi đó là hành vi “đem vàng đổ xuống biển”. Những luận điểm đó của Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa sâu sắc hơn khi mà ngày nay, con người đã dần nhận ra rằng, tài nguyên thiên nhiên không phải là vô hạn, đặc biệt một số nguồn tài nguyên, như rừng, đất đai, khoáng sản... rất ít hoặc không có khả năng tái tạo.

Xuất phát từ những nhận thức trên, nhiệm vụ giữ gìn, bảo vệ và chăm sóc tự nhiên - “cái nôi” của con người đã được Hồ Chí Minh xác định rất rõ ràng, coi đó là biện pháp thiết thực để duy trì sự tồn tại, phát triển của chính bản thân con người, nâng cao chất lượng sống của con người trong hiện tại và tương lai. Một mặt, Người khuyên nhân dân tích cực sản xuất, cần cù lao động nhưng phải thực hành tiết kiệm; không chỉ tiết kiệm về thời gian, sức lực, mà tiết kiệm cả trong tiêu dùng của cải. Bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về lối sống giản dị, tiết kiệm: ngôi nhà sàn đơn sơ, bữa cơm thanh đạm, giường mây, chiếu cói... Tiết kiệm ở đây hoàn toàn không phải là chấp nhận cuộc sống "khổ hạnh" thiếu thốn, mà chính là nhằm xây dựng nước nhà, xây dựng tương lai. Có thể nói, tư tưởng về thực hành tiết kiệm của Hồ Chí Minh chứa đựng một giá trị văn hoá sinh thái nhân văn sâu sắc, nhất là trong điều kiện ngày nay, khi mà yêu cầu sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên trở thành một nguyên tắc cơ bản của sự phát triển bền vững.

Mặt khác, Hồ Chí Minh luôn quan tâm nhắc nhở và động viên mọi ngành, mọi người tích cực tham gia gìn giữ tự nhiên, bảo vệ môi trường sống; nhấn mạnh ý nghĩa trước mắt và lâu dài của việc trồng cây gây rừng: "phải trồng cây nhiều và tốt để lấy gỗ... Cây ăn quả, cây làm củi, cây công nghiệp cũng là nguồn lợi to lớn. Cũng nên ra sức trồng cây để chống gió cát, bảo vệ ruộng, chống xói mòn...”(9). Người đã đề xuất một “sáng kiến vĩ đại” mà ngày nay trở thành một phong trào xã hội rộng lớn, có ý nghĩa đặc biệt thiết thực với cuộc sống của con người - phong trào Tết trồng cây đem lại màu xanh và nhiều nguồn lợi to lớn cả về vật chất và tinh thần cho đất nước, con người. Có thể thấy rằng, những tư tưởng về bảo vệ môi trường sống của Hồ Chí Minh chứa đựng ý nghĩa to lớn, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi mà những nguy cơ ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái, cạn kiệt tài nguyên... đang trực tiếp đe doạ cuộc sống của con người hiện tại và các thế hệ tương lai.

Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh tham gia cùng bà con nông dân tát nước chống hạn cứu lúa không chỉ thể hiện tác phong gần dân, bám sát thực tiễn đời sống và sản xuất, mà còn biểu hiện mối quan tâm sâu sắc và thường trực của Người đối với cuộc sống của nhân dân. Bởi, triết lý của Hồ Chí Minh là triết lý hành động, nói đi đôi với làm, lý luận gắn với thực tiễn. Mặc dù bận nhiều công việc quan trọng của Đảng và Chính phủ, song mỗi khi có dịp đến thăm các địa phương, các đơn vị bộ đội, các nhà máy, công trường,… bao giờ Người cũng dành thời gian hỏi han tình hình đời sống, kiểm tra nơi ăn chốn ở của đồng bào, của chiến sĩ và công nhân, nhắc nhở cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên quan tâm chăm sóc đời sống của con người, nhắc nhở mọi người phải giữ gìn vệ sinh trong sinh hoạt, bảo đảm an toàn trong lao động sản xuất…    

Với tư duy biện chứng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, lợi ích vật chất dù rất quan trọng, song không phải là duy nhất; ngoài đời sống vật chất, con người còn có đời sống tinh thần và những nhu cầu tinh thần đa dạng. Vì vậy, chăm lo cho con người không chỉ là chú ý giải quyết những vấn đề ăn, mặc, ở, mà còn phải chăm lo đến đời sống tinh thần của họ. Nếu con người chỉ ăn no, mặc ấm mà không có đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh thì cũng không thể phát triển toàn diện. Vì thế, Người căn dặn Đảng và Nhà nước cần phải thường xuyên quan tâm đến vấn đề dân sinh, phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Bởi lẽ, mục đích của chủ nghĩa xã hội không có gì khác hơn là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.

Chú trọng giải quyết vấn đề dân sinh, hay nói cách khác là quan tâm đến mặt xã hội trong tiến trình phát triển là một sự sáng tạo, thể hiện sự nhạy cảm chính trị của Hồ Chí Minh. Trong điều kiện trình độ dân trí còn thấp, cuộc sống còn vô vàn khó khăn và thiếu thốn, hơn mọi sự tuyên truyền hay thuyết phục một cách thuần tuý, người dân chỉ có thể cảm nhận những giá trị tốt đẹp, ưu việt của xã hội mới và đặt trọn niềm tin của mình vào chủ nghĩa xã hội như một tương lai sán lạn qua những biểu hiện thiết thực, những giá trị cụ thể, "mắt thấy tai nghe" dù chưa đầy đủ ngay lập tức, mà cuộc cách mạng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản mang lại cho họ ngày càng nhiều hơn. Trên một phương diện nhất định, tương lai bắt đầu từ hiện tại chính là với ý nghĩa đó.

Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên trì vận dụng và phát triển những quan niệm của Hồ Chí Minh về dân sinh. Dân giàu trở thành một trong những mục tiêu hàng đầu của sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng và nhờ vậy, tạo nên diện mạo và sắc thái mới trong đời sống xã hội, trước hết là trong lĩnh vực dân sinh. Ngay từ năm 2002, Việt Nam đã được Liên hợp quốc đánh giá là hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2005; chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục được cải thiện theo chiều hướng tích cực: năm 1985 mới đạt 0,590, năm 1990 đạt 0,620, năm 1995 đạt 0,672, năm 2000 đạt 0,711, năm 2005 đạt 0,733, dự kiến năm 2007 đạt trên 0,75%. Thứ bậc về HDI tăng lên trong khu vực Đông Nam Á, ở châu Á và trên thế giới. Thứ bậc trên thế giới về HDI cao hơn thứ bậc về GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương (105 so với 123), cao hơn hàng chục nước có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam. Tỷ lệ nghèo đói giảm mạnh (từ 17,8% xuống còn 14,8%)(10). Đó là những thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong mục tiêu phát triển toàn diện và nâng cao chất lượng sống của con người.

Với Hồ Chí Minh, bao giờ dân cũng là gốc nước và nước là của dân. Những quan niệm của Người về vấn đề dân sinh không chỉ thể hiện tính nhân văn, nhân đạo cao cả, mà còn hàm chứa trong đó những giá trị chỉ dẫn quan trọng mang tầm chiến lược, soi đường cho Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam trong việc giải quyết ngày càng tốt hơn vấn đề dân sinh - một trong những nội dung căn bản nhất của thời đại ngày nay, đồng thời cũng là một nội dung chủ đạo của sự phát triển xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nguồn: / 0

Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý tưởng và hiện thực vào nghiên cứu lý luận chính trị ở nước ta hiện nay

Triết học

Bài viết phân tích sự vận dụng nguyên tắc về sự thống nhất giữa lý tưởng và hiện thực của chủ nghĩa Mác - Lênin vào việc nghiên cứu lý luận chính trị ở nước ta hiện nay. Theo tác giả, sự thống nhất giữa cái lý tưởng với cái hiện thực không chỉ là yêu...

Bước đầu tìm hiểu những vấn đề lịch sử về xung đột xã hội

Triết học

Xung đột xã hội và đồng thuận xã hội là những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Trong bài viết này, tác giả đã khảo sát các quan niệm khác nhau trong lịch sử về xung đột xã hội, từ thời cổ đại,...

Trách nhiệm xã hội và vai trò của nó trong cơ chế thị trường ở nước ta

Triết học

Khẳng định trong bối cảnh toàn cầu hoá và phát triển kinh tế thị trường, việc thảo luận những vấn đề bản thể của trách nhiệm xã hội là cần thiết, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và phân tích những quan niệm khác nhau về trách nhiệm xã hội, về...

Xu hướng phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế

Triết học

Trên cơ sở khái quát hoá quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về giai cấp công nhân, tác giả đã phân tích sự biến đổi của giai cấp công nhân hiện đại trên thế giới về trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp, về quyền sở hữu,… Đặc biệt, tác giả đã rút ra...

Về một số thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài

Triết học

Trao đổi về một số thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, trong bài viết này, tác giả đã khẳng định cách phiên âm tên địa phương và tên người ra tiếng Việt tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng vẫn còn chưa thống nhất;...

Học thuyết Mác và vấn đề hoàn thiện các yếu tố của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay

Triết học

Dựa trên quan điểm của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội nói chung, về phát triển lực lượng sản xuất nói riêng, trong bài viết này, tác giả đã làm rõ một số nguyên tắc, phương châm cơ bản trong việc vận dụng quan điểm của C.Mác nhằm phát...

Lý luận xây dựng xã hội hài hoà của Trung Quốc và công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Triết học

Trong bài viết này, tác giả đã trình bày một cách khái quát tư tưởng về sự hài hoà của một số nhà triết học, đồng thời nêu ra một số nội dung cơ bản nhất của lý luận xây dựng xã hội hài hoà của Trung Quốc. Đặc biệt, tác giả đã phân tích để làm rõ...

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách

Triết học

Bài viết tập trung phân tích nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, vai trò của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp và một số vấn đề đặt ra trong việc thực thi trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp ở Việt Nam. Theo tác...

Bảo đảm công bằng xã hội vì sự phát triển bền vững

Triết học

Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam coi công bằng xã hội là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Để có được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, cần phải xác định và thực hiện đúng...