Danh sách bài viết

NHẠC GIAO HƯỞNG LÀ GÌ

Cập nhật: 28/12/2017

Thuật ngữ Symphonic music - nhạc giao hưởng, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là hòa hợp âm hưởng. Nội hàm của nó để chỉ những tác phẩm viết cho dàn nhạc giao hưởng biểu diễn trong một phòng hòa nhạc lớn. Mỗi loại nhạc cụ trong dàn nhạc có một âm sắc riêng. Khi thưởng thức thể loại này, do cách kết hợp, pha trộn nhiều âm sắc của các loại nhạc cụ, người thưởng thức sẽ thấy được sự phong phú muôn màu, muôn vẻ của tác phẩm. Nhạc giao hưởng gồm có các loại: liên khúc giao hưởng (còn gọi là bản giao hưởng), tổ khúc giao hưởng, côngxectô (concerto), uvéctuya (ouverture), thơ giao hưởng, những khúc rapxôđi (rhapsodie) và phăngtedi (fantaisie) giao hưởng...

 Nhạc giao hưởng (symphony) đầu tiên xuất hiện trong nhạc kịch của Alessandro Scarlatti (1660-1725) thuộc trường phái Naples của Ý. Khi đó, giao hưởng là khúc nhạc mở màn cho nhạc kịch với cấu trúc gồm 3 chương tương phản: nhanh - chậm - nhanh (presto - adagio - presto). Tuy nhiên, Joseph Haydn (1732-1809) - nhạc sĩ thiên tài người Áo - mới được coi là cha đẻ ra bản giao hưởng viết cho dàn nhạc biểu diễn độc lập. Trước J.Haydn cũng đã có hình thức sơ khai của thể loại này như các bản concerto grossoBrandenburg của Johann Sebastian Bach (1685-1750) nhạc sĩ vĩ đại người Đức, hay trong các bản giao hưởng dài của các nhạc sĩ ở Mannheim (cháu của J.S. Bach). Những tác phẩm giao hưởng sơ khai này chủ yếu là bản hòa tấu cho các nhạc cụ dây, đôi khi có bổ sung thêm một vài nhạc cụ hơi. Phải đến J.Haydn, những nguyên tắc viết giao hưởng mới được khẳng định. Giao hưởng của ông thường có từ 3 đến 4 chương tương phản sử dụng liên khúc sonata, trong đó có một chương viết ở hình thức sonata.

Chương một thường viết ở nhịp độ nhanh và cấu trúc hình thức sonata nên thường gọi là chương sonata allegro. Đây là chương trung tâm tư tưởng của tác phẩm, với các chủ đề âm nhạc tương phản nhau tạo ra sự kịch tính trong quá trình phát triển.

Chương hai thường tương phản với chương một, có nhịp độ chậm, trữ tình, diễn tả những cảm xúc suy tư, sâu lắng trong thế giới nội tâm của con người.

Chương ba với nhịp độ nhanh, diễn tả những cảm xúc vui tươi, nhảy múa, liên quan đến cảnh trí sinh hoạt, hội hè. Tính vũ khúc được xây dựng từ chất liệu âm nhạc của Mơnuyê (Menuet) - điệu nhảy cung đình Pháp - nên còn gọi là chương Mơnuyê.

Chương bốn (kết) được diễn tấu với nhịp độ rất nhanh, có chức năng tổng hợp và tạo tính thống nhất cho toàn bộ tác phẩm, thường được xây dựng ở hình thức sonata hoặc rondo soanta. Phần lớn chương này, nội dung của nó thường miêu tả những bức tranh ngày hội của quần chúng.

Thông qua các tác phẩm, J.Haydn đã qui định thành phần của dàn nhạc giao hưởng gồm 4 bộ nhạc cụ: bộ dây (violin I, violin II, viola, cello, contrebass, còn gọi là double bass); bộ gỗ (flute, oboe, basson); bộ đồng (french horn, trumpet, thỉnh thoảng trong tác phẩm, ông có sử dụng thêm trombone); bộ gõ: 2 timpani.

Đây là những nhạc cụ chính trong dàn nhạc giao hưởng của J.Haydn. Các nhạc sĩ kế tiếp sau ông đã liên tục bổ sung thêm thành phần nhạc cụ vào dàn nhạc giao hưởng, làm cho dàn nhạc ngày càng thêm phong phú với nhiều âm sắc khác nhau. Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791) bổ sung thêm kèn clarinet vào biên chế dàn nhạc giao hưởng; Ludwig Van Beethoven (1770-1827), đưa trombone thành nhạc cụ chính thức của dàn nhạc giao hưởng. Ngoài ra, có sự thay đổi cơ cấu các chương, như trong bản giao hưởng số 02 của L.V.Beethoven, đã thay chương ba Mơnuyê bằng Skeczô (Scherzo).

Dàn nhạc giao hưởng cũng được phân làm hai loại: dàn nhạc nhỏ và dàn nhac lớn. Căn cứ vào số lượng nhạc cụ hơi tham gia dàn nhạc để người ta bố trí các nhạc cụ khác cho phù hợp. Dàn nhạc một quản, các nhạc cụ hơi mỗi loại chỉ có một cây. J.Haydn và W.A.Mozart thường dùng dàn nhạc giao hưởng nhỏ hai quản, còn L.V.Beethoven hay dùng dàn nhạc giao hưởng lớn từ ba đến bốn quản.

Có thể thấy rằng, TK XVIII, trong lịch sử âm nhạc châu Âu, nghệ thuật giao hưởng được định hình và phát triển mạnh mẽ.J.Haydn đã để lại cho nhân loại hơn một trăm tác phẩm giao hưởng, có thể coi là khuôn mẫu cổ điển để các nhạc sĩ lớp sau kế thừa và phát triển. Trong các tác phẩm giao hưởng của ông, thường toát lên niềm tin vào cuộc sống, những ước mơ khát vọng về một tương lai tươi sáng. Chính vì lẽ đó, hầu hết tác phẩm giao hưởng, ông đều viết ở giọng trưởng, đặc biệt là không có tiêu đề mà chỉ đánh số. Đỉnh cao là 12 bản giao hưởng ông viết cuối đời trong những năm sống ở Luân Đôn (Anh) - gọi là 12 bản giao hưởng Luân Đôn.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 310, tháng 4-2010

Tác giả : Tuệ Minh (sưu tầm)

Nguồn: / 0

Không gian Văn hóa Sáng tạo Việt Nam – Kỷ yếu dự án

Nghệ thuật và Âm nhạc

Dự án Không gian Văn hóa Sáng tạo Việt Nam được đồng tài trợ bởi Liên minh châu Âu và Hội đồng Anh, và do Hội đồng Anh phối hợp với Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam thực hiện trong vòng ba năm kể từ 2018 đến năm 2021

Cổ và mới

Nghệ thuật và Âm nhạc

Dân tộc và hiện đại quả là vấn đề thế kỉ, vì giới nhạc bàn luận đã lâu mà vẫn chưa thấu, thử nghiệm cũng nhiều mà vẫn chưa thỏa. Khúc mắc nảy sinh nhiều khi là do dân tộc - hiện đại được hiểu được hành không chỉ như hai vế đối lập của các cặp phạm...

Quách Thị Hồ - Sênh phách giọng sầu gửi bóng mây

Nghệ thuật và Âm nhạc

Quách Thị Hồ - Sênh phách giọng sầu gửi bóng mây Tiếng hát của Quách Thị Hồ đẹp và tráng lệ như một tòa lâu đài nguy nga, lộng lẫy, mà mỗi tiếng luyến láy cao siêu tinh tế của bà là một mảng chạm kỳ khu của một bức cửa võng trong cái tòa lâu đài...

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý - bậc lão làng trong nền âm nhạc Việt Nam

Nghệ thuật và Âm nhạc

Những năm sống trên miền Bắc, tôi chưa có dịp được làm quen với nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý. Mãi đến năm 1976, anh Nguyễn Văn Tý mới chuyển vào Sài Gòn, cùng với tôi công tác trong Viện Nghiên cứu Âm nhạc Việt Nam do Giáo sư nhạc sĩ Lưu Hữu Phước làm Viện...

Vai trò của sáo trúc trong nghệ thuật chèo

Nghệ thuật và Âm nhạc

Nghệ thuật Chèo là một loại hình nghệ thuật truyền thống tiêu biểu và phát triển mạnh ở các vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Nghệ thuật Chèo được bắt nguồn từ cuộc sống lao động, sinh hoạt của nhân dân ta từ hàng ngàn năm nay và nó đã chiếm một vị trí...

Bộ ba Nhạc huyền ở đình làng Nam Bộ

Nghệ thuật và Âm nhạc

Nhạc huyền (Nhạc treo) là bộ phận âm nhạc chủ yếu sử dụng những nhạc khí đặt trên giá hay treo trên dây, như trống lớn, khánh đá, chuông đồng... Trong số này, có những nhạc khí đứng lẻ loi một mình, như Kiến cổ, Đại cổ (trống lớn), Đặc khánh (khánh...

Người bén duyên Hò khoan Lệ Thủy

Nghệ thuật và Âm nhạc

Vừa từ Quảng Bình ra, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vỹ gọi điện bảo tôi xuống ông ngay "có món này hay lắm". Tưởng là món nhậu gì đó, hóa ra không phải. Ông mở cho xem cuốn băng do Viện Âm nhạc vừa ghi hình về Hò khoan Lệ Thủy do chính...

Nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa với xẩm: Bồng bềnh một cõi mơ…

Nghệ thuật và Âm nhạc

Những ai yêu bộ môn nghệ thuật hát xẩm, hẳn không lạ lẫm gì với nữ nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa trong nhóm nghệ sĩ xẩm Hà Thành. Chị chính là cô học trò nhỏ của nghệ nhân Hà Thị Cầu, người đã được bà Cầu khi còn ở dương thế âu yếm nói với những người làm...

NGHỆ THUẬT MÚA

Nghệ thuật và Âm nhạc

KHÁI QUÁT MÚA ĐƯƠNG ĐẠI VÀ CÁC PHẦN BÀI HỌC CƠ BẢN TRONG MÚA ĐƯƠNG ĐẠI I. Khái quát Múa đương đại: "Múa đương đại" là một từ buzz phổ biến trong ngành công nghiệp giải trí ngày hôm nay, nhưng ngay cả các vũ công chuyên nghiệp và biên đạo múa đã...