Danh sách bài viết

Vai trò của con người trong sự phát triển xã hội theo định hướng bền vững

Cập nhật: 27/12/2017

Phạm Thị Oanh(*)

Khẳng định con người luôn giữ vị trí trung tâm trong các quá trình kinh tế - xã hội, nhân tố con người chiếm vị trí hàng đầu trong tổng thể các nhân tố tác động đến sự phát triển xã hội, trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích vai trò của con người trong sự phát triển xã hội theo hướng bền vững trên ba phương diện: 1. Bền vững về sinh thái; 2. Bền vững về kinh tế; 3. Bền vững về xã hội.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

          Lịch sử xã hội loài người diễn ra như một dòng chảy vô tận mà mỗi hình thái xã hội sau luôn kế thừa những giá trị tích cực, tiến bộ của hình thái trước, lọc bỏ những hạn chế, lỗi thời để phát triển lên một trình độ mới cao hơn. Sự phát triển xã theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn là một quy luật tất yếu. Mô hình phát triển truyền thống của nhân loại là mô hình phát triển duy kinh tế đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Sự phân cực xã hội, đói nghèo vẫn hiện diện như một vấn đề cấp bách toàn cầu ngay trong thời đại văn minh. Mặc dù của cải, không ngừng tăng lên, song cái thiếu nhất không phải là của cải mà là sự công bằng. Đặc biệt, người ta còn nói tới cả sự công bằng giữa các thế hệ trong việc hưởng thụ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Bất công, đói nghèo, xung đột, khủng hoảng môi trường, cạn kiệt tài nguyên, v.v. hiện đang tồn tại với tư cách những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của loài người bắt nguồn từ chính những mặt trái của sự phát triển. Phát triển, nếu không được kiểm soát một cách chặt chẽ và khoa học, sẽ dẫn tới những hậu quả khôn lường cho loài người. Sau nhiều thế kỷ say sưa với thắng lợi trước thiên nhiên, giờ đây, nhân loại đã và đang thức tỉnh để sửa chữa những sai lầm của mình. Khái niệm phát triển bền vững được chính thức đưa ra trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”  vào năm 1987 và nhanh chóng có được sự ủng hộ quốc tế rộng rãi. Phát triển bền vững đã trở thành xu thế tất yếu và là nhu cầu cấp bách của các quốc gia nhằm tìm kiếm một mô hình phát triển mới thay thế cho các mô hình đã bộc lộ nhiều hạn chế.

          Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển bền vững được tổ chức tại Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 đã chỉ rõ: phát triển bền vững là “sự phát triển kinh tế- xã hội lành mạnh, dựa trên việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường nhằm đáp ứng nhu cầu của thế hệ con người hiện nay và không ảnh hưởng bất lợi đối với các thế hệ tương lai trong việc thoả mãn các nhu cầu của họ”[1].

Theo đó, có thể nói, “phát triển bền vững“ là một khái niệm đa phương diện, vì vậy có nhiều hướng tiếp cận khác nhau: hướng tiếp cận kinh tế, hướng tiếp cận sinh thái, hướng tiếp cận văn hoá- xã hội. Tuy nhiên, cần tiếp cận phát triển bền vững trên quan điểm toàn diện. Nếu mô hình phát triển truyền thống lấy tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất, lấy hàng hoá, của cải là trọng tâm thì mô hình phát triển bền vững lấy con người là trọng tâm với sự kết hợp hài hòa ba mục tiêu: sinh thái, kinh tế và xã hội.

          Con người luôn giữ vị trí trung tâm trong các quá trình kinh tế - xã hội, do vậy, để thực hiện phát triển bền vững, nhân tố con người nổi lên hàng đầu trong tổng thể các nhân tố tác động và giữ vị trí trung tâm trong cả ba trụ cột sinh thái, kinh tế và xã hội.

          1. Bền vững về sinh thái

Khái niệm phát triển biền vững ban đầu được đưa ra chủ yếu từ mối quan tâm lo ngại trước sự suy thoái của môi trường tự nhiên, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên do tác động của con người.

          Hệ sinh thái, nói rộng ra là giới tự nhiên, vốn là “thân thể vô cơ của con người”(2). Sự xuất hiện của con người là kết quả của quá trình tiến hóa của giới tự nhiên trong nhiều triệu năm. Con người là “một cơ thể phức tạp nhất mà giới tự nhiên đã sản sinh ra được”(3). Như vậy, con người là một bộ phận hữu cơ của hệ sinh thái, một thành viên không tách rời của giới tự nhiên. Song, con người là một thành viên đặc biệt, một thực thể duy nhất có ý thức, có khả năng lao động, có thể tác động trở lại giới tự nhiên một cách mạnh mẽ nhất. Con vật cũng tác động vào thế giới xung quanh bằng sự có mặt của nó. Nhưng, chỉ có con người với bộ óc biết tư duy, với đôi bàn tay lao động mới đạt đến chỗ “in dấu ấn” của mình vào tự nhiên. Con người không chỉ là sản phẩm phát triển của giới tự nhiên một cách thụ động, mà còn là chủ thể tích cực của quá trình tác động cải tạo tự nhiên, biến đổi tự nhiên một cách có ý thức. Nhờ đó, con người đã tạo ra cho mình những điều kiện sinh tồn mới, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao hơn của bản thân con người. Tuy nhiên, mọi sự tác động của con người vào giới tự nhiên cũng là tác động đến con người, tàn phá tự nhiên cũng chính là huỷ diệt loài người. Bởi, như C.Mác đã khẳng định, “nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên”(4).

          Khi sự tác động của con người vào giới tự nhiên gia tăng mạnh mẽ thì hậu quả ghê gớm về mặt môi sinh cũng gia tăng, làm dấy lên những lo ngại về một cuộc khủng hoảng sinh thái toàn cầu. Các nhà sinh thái học, các nhà khoa học môi trường cũng như các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm về tương lai của hành tinh liên tiếp đưa ra những cảnh báo. Chúng đã được các nhà hoạch định chiến lược, chính sách phát triển của các quốc gia đặc biệt quan tâm.

          Cốt lõi trong quan điểm bền vững về sinh thái là, trong quá trình phát triển, con người phải tác động vào hệ sinh thái nhằm thoả mãn nhu cầu hiện tại nhưng không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong việc thoả mãn nhu cầu của họ. Con người phải làm sao để hệ sinh thái có thể tự tái sinh và ngày càng phong phú hơn. Con người ngày nay không được ăn lạm vào “vốn liếng” của loài người, không làm tổn hại đến triển vọng duy trì và cải thiện mức sống cho các thế hệ mai sau. Mục tiêu của phát triển bền vững về sinh thái là khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường sống.

          Phát triển bền vững là mô hình phát triển mang tính tự giác của toàn nhân loại. Khi nhấn mạnh vai trò chủ thể tích cực của con người trong việc cải tạo tự nhiên, biến đổi tự nhiên, chúng tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng, tất cả những thành tựu đạt được của nền văn minh nhân loại cũng như những mặt trái của nó đều do con người nhận thức, định hướng, tổ chức và thực hiện. Khủng hoảng sinh thái do con người gây ra và chỉ con người mới có thể phòng ngừa, ngăn chặn, khắc phục nó. Phát triển bền vững về sinh thái thực chất là điều chỉnh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên nhằm đảm bảo sự cân bằng, đảm bảo sự hài hòa, bền vững của hệ sinh thái. Mục đích của nó là làm sao để con người, các cộng đồng, các thế hệ ngày càng được sống trong môi trường tự nhiên an toàn, bền vững, văn minh, hiện đại. Đó thực sự là quá trình do con người, vì con người; con người là chủ thể, là động lực và là mục tiêu của sự phát triển.

          Do vậy, nâng cao ý thức tự giác, chủ động, tích cực của con người trong quan hệ với tự nhiên là một trong những nguyên tắc quan trọng của phát triển bền vững.Ý thức đó được biểu hiện hết sức đa dạng trong mọi lĩnh vực với các hình thái, các cấp độ khác nhau.

          Triết học Mác đã chỉ ra cơ sở của phát triển bền vững về sinh thái, khi khẳng định rằng, “chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng chúng một cách chính xác”(5). Thật vậy, con người chỉ có thể thực sự đóng vai trò chủ thể hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên một cách có hiệu quả, làm giàu tự nhiên, mang lại lợi ích lâu dài cho con người khi con người, nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và biết vận dụng chúng một cách đúng đắn. Nếu con người tuỳ tiện tác động vào tự nhiên, bất chấp quy luật, cố tình đi ngược lại quy luật thì con người có thể thu được những lợi ích trước mắt, trong phạm vi hẹp; nhưng những hậu quả khôn lường về mặt môi sinh thì những cộng đồng khác, những thế hệ mai sau sẽ phải gánh chịu.

          Vì vậy, để phát triển bền vững về sinh thái không chỉ cần có nhận thức khoa học, mà còn cần sự kết hợp của nhiều yếu tố về chính trị, đạo đức, văn hoá, pháp luật… Người ta đã đề cập nhiều tới trách nhiệm, nghĩa vụ, lợi ích, sự công bằng giữa các cộng đồng, giai cấp, các dân tộc, các thế hệ trong việc hưởng thụ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Con người phải ý thức được rằng, việc hưởng thụ tài nguyên môi trường là lợi ích chung của toàn nhân loại; đồng thời, việc chia sẻ các lợi ích và bảo tồn chúng cũng là nghĩa vụ chung của loài người. Khi các cộng đồng dân cư cùng chia sẻ lợi ích của một dòng sông, chỉ cần một nhà máy bên bờ con sông ấy xả chất thải độc hại gây ô nhiễm nguồn nước thì sẽ là thảm họa cho tất cả cộng đồng và để lại những hậu quả lâu dài trong tương lai. Hiện tượng này không phải là cá biệt; nó không chỉ dẫn tới nguy cơ thiếu nước sạch - một trong những nguy cơ hàng đầu đe dọa sự bền vững về sinh thái, mà còn dẫn đến nhiều nguy cơ khác nữa cho sự bền vững sinh thái.

          Song, để đảm bảo sự bền vững của hệ sinh thái, con người không chỉ nhận thức, mà còn cần phải hành động. Các chính phủ, các nhà lãnh đạo của nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang triển khai Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững theo tinh thần của Tuyên bố Rio-92. Điều trớ trêu là, chính những nước đứng đầu trong việc tiêu thụ tài nguyên, thải bỏ chất thải gây ô nhiễm môi trường lại dường như thờ ơ với các cam kết quốc tế về bảo vệ tài nguyên và môi trường. Rõ ràng rằng, hệ sinh thái có phát triển an toàn, bền vững hay không phụ thuộc vào chính con người.

          2. Bền vững về kinh tế

Bền vững về kinh tế thể hiện ở sự tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định. (Được lượng hoá qua các tiêu chí, như tổng sản phẩm trong nước GDP; GDP/người; cơ cấu GDP; tăng trưởng GDP; tổng sản phẩm quốc gia GNP).

Để có tăng trưởng kinh tế phải có các nhân tố tất yếu : nhân tố tự nhiên, nhân tố con người, các yếu tố vật chất do con người tạo ra (công nghệ, vốn…). Nhân tố con người còn được gọi bằng những khái niệm khác, như nguồn nhân lực, tài nguyên con người, nguồn vốn con người,…

Vai trò của nhân tố con người được đánh giá khác nhau trong mỗi giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội. Trong một thời gian dài, quan điểm truyền thống coi nguồn lực tự nhiên là lợi thế hàng đầu, nguồn lực vật chất là động lực của tăng trưởng và phát triển. Điều đó tạo ra xu hướng tập trung đầu tư vào nguồn lực vật chất và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên; ngược lại, việc đầu tư phát triển nguồn lực con người cũng như lợi ích từ việc đầu tư đó bị xem nhẹ. Người ta coi tài nguyên thiên nhiên là của trời cho và vô tận, do đó chúng thường bị sử dụng hết sức lãng phí, mức khai thác thường vượt quá mức có thể phục hồi, dẫn tới sự cạn kiệt tài nguyên, hủy hoại môi trường sống của con người và sinh vật. Đó là quá trình phát triển không bền vững mà kết quả cuối cùng lại “thường hay phá hủy tất cả những kết quả đầu tiên của nó”.

Khi lợi thế trước mắt từ việc đầu tư vào khai thác các nguồn lực tự nhiên dần mất đi thì lợi thế lâu dài từ việc đầu tư vào nguồn lực con người cũng lộ rõ. Đặc biệt, khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, khi mà nền kinh tế thế giới đã và đang chuyển sang nền kinh tế tri thức, nguồn lực con người, nguồn lực trí tuệ càng được thừa nhận, càng giữ vai trò trung tâm trong quá trình phát triến.

Về mặt kinh tế, nguồn lực con người được xem xét chủ yếu dưới góc độ là lực lượng lao động cơ bản của xã hội, cả trong hiện tại và tương lai. Nó chủ yếu cần được quan tâm về mặt chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất…, tức là toàn bộ năng lực sáng tạo, năng lực hoạt động thực tiễn của con người. Người lao động đã được V.I.Lênin khẳng định là “lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại”. Con người là một đầu vào trực tiếp của quá trình sản xuất. Nếu người lao động có kỹ năng lao động, trình độ khoa học - kỹ thuật… thì hiển nhiên là năng suất lao động sẽ cao hơn. Người lao động cần được trang bị kỹ năng lao động, sự hiểu biết, trình độ về khoa học, công nghệ..., đó là điều kiện thiết yếu nhằm đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển công nghệ tiên tiến. Con người là chủ thể khai thác, sử dụng các nguồn lực khác; chỉ khi kết hợp với con người, các nguồn lực khác mới phát huy tác dụng. Mặt khác, con người lại là khách thể, là đối tượng khai thác các năng lực thể chất và trí tuệ cho sự phát triển. Vậy con người vừa là chủ thể, vừa là khách thể của các quá trình kinh tế-xã hội, là nguồn lực của mọi nguồn lực. Sự kết hợp, sự thống nhất biện chứng giữa con người với công nghệ tiên tiến là động lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế.

Đầu tư cho phát triển nguồn lực con người mang lại hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm được việc khai thác, sử dụng các nguồn lực khác. Kinh nghiệm từ nhiều quốc gia trên thế giới đã cho thấy, đầu tư cho phát triển nguồn lực con người mang lại tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định hơn. Mặt khác hiệu quả đầu tư cho phát triển con người có độ lan toả đồng đều và mang lại sự công bằng hơn về cơ hội phát triển, cũng như việc hưởng thụ các lợi ích của sự phát triển. Nó nhằm hướng tới mục tiêu cuối cùng là mang lại cuộc sống đầy đủ, tốt đẹp hơn cho con người. Quan điểm này đối lập với một số quan điểm duy kinh tế dành ưu tiên cho tài sản, của cải, xem đó là cái đích của sự phát triển. Khi đó, con người, người lao động, lực lượng đông đảo nhất trong xã hội chỉ được coi là phương tiện để đạt tới sự giàu có cho một số người. Con người lao động chỉ được xem xét là đối tượng khai thác giá trị kinh tế, mà không phải đối tượng đáp ứng nhu cầu do thành quả của phát triển kinh tế mang lại. Sự lộn ngược trong việc xác định mục tiêu và phương tiện đã dẫn đến những hậu quả nặng nề cả về phương diện kinh tế lẫn xã hội. Quan điểm lấy con người là trung tâm luôn xác định vai trò con người vừa là chủ thể vừa là khách thể, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của phát triển kinh tế.

3. Bền vững về xã hội

          Trên thực tế, không phải bao giờ sự tăng trưởng kinh tế cũng tương ứng  với việc cải thiện điều kiện sống của toàn thể cộng đồng xã hội. Thậm chí, ở nhiều nơi, khi của cải xã hội tăng lên, người ta còn cảm thấy mình nghèo hơn trước và bị thải loại về mặt xã hội, khi tình trạng bất công gia tăng. Trong khi mức sống của phần lớn người dân thành thị đã tăng lên đáng kể thì vẫn có những bộ phận không nhỏ ở vùng sâu, vùng xa còn chưa được tiếp cận những điều kiện tối thiểu về y tế, giáo dục, còn thiếu thốn lương thực, nước sạch cũng như các nhu cầu sống cơ bản của con người. Khoảng cách giàu nghèo, phân tầng xã hội có xu hướng gia tăng nhanh chóng trong nền kinh tế thị trường. Như vậy, các chính sách tăng trưởng, thậm chí bền vững về kinh tế, cũng có thể gây ra những hậu quả xã hội nghiêm trọng: sự mất cân đối về mặt xã hội dẫn đến những căng thẳng, các mối quan hệ xã hội gắn bó bị phá vỡ, bạo lực gia tăng Hậu quả là làm giảm, thậm chí triệt tiêu hoàn toàn mọi cố gắng của tăng trưởng, phát triển. Đó là tính không bền vững trong sự phát triển xã hội. Rõ ràng là, để xem xét phát triển bền vững một cách toàn diện, cần phải đánh giá tác động của các mặt kinh tế, môi trường đồng thời với những tác động nằm ngay trong các vấn đề xã hội.

          Bền vững về mặt xã hội là phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo, lấy chỉ số phát triển con người làm mục tiêu cao nhất của sự phát triển xã hội (được cụ thể hoá qua chỉ số phát triển con người HDI, chỉ số bất bình đẳng thu nhập GINI, chỉ số phát triển giới GEM…).

          Ở đây, một lần nữa, vị trí trung tâm của con người lại nổi lên với tư cách mục tiêu cao nhất của sự triển xã hội. Mục tiêu của phát triển bền vững chủ yếu không phải là tạo ra nhiều hàng hóa, của cải, mà nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống con người, không phân biệt tầng lớp, chủng tộc, giới tính, vùng miền… Sẽ là không công bằng và cũng không thể thực hiện được việc quan tâm tới “các thế hệ tương lai trong việc thoả mãn các nhu cầu của họ”, nếu chúng ta lại bỏ qua nhu cầu của các thế hệ con người hiện nay. Khi con người còn chưa được đáp ứng những nhu cầu trước mắt, họ sống trong nghèo đói, đó là nguy cơ lớn đe dọa môi trường tự nhiên. Cạm bẫy đói nghèo lại tạo ra cái vòng luẩn quẩn cho cả con em họ- các thế hệ tương lai. Khi mà đói nghèo vẫn còn hiện diện thì cuộc đấu tranh chống đói nghèo là mục tiêu trọng tâm của phát triển bền vững về xã hội. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và việc nâng cao chất lượng cuộc sống con người, đặc biệt là người nghèo, phụ thuộc nhiều vào cách thức phân phối của cải xã hội do tăng trưởng kinh tế mang lại. Ngày nay, tình trạng mất công bằng, bình đẳng còn tồn tại và biểu hiện hết sức đa dạng: theo giới, theo nhóm, theo không gian, theo thời gian, theo lĩnh vực, theo địa vị và các quan hệ xã hội… Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải có sự quan tâm đầy đủ, cũng như phải có các thể chế, chính sách cụ thể nhằm điều tiết bất công, một yếu tố quan trọng nhằm xoá đói giảm nghèo, đảm bảo cho phát triển bền vững.

            Con người là chủ thể của các quá trình xã hội và không ai khác, chính con người phải thực hiện phát triển bền vững về xã hội vì lợi ích của bản thân con người. Con người có thể xét trên các phương diện cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các nhà nước, quốc gia, dân tộc hoặc cả loài người. Song, trước hết, mỗi cá nhân phải tự hình thành cho mình những khả năng, năng lực sống, các cơ hội về mặt xã hội, như trình độ hiểu biết, chuyên môn nghiệp vụ, sức khoẻ, các quan hệ xã hội... Người không có trình độ chuyên môn khó có khả năng tìm được việc làm có thu nhập cao và ổn định. Thiếu thu nhập khó có khả năng tiếp cận hệ thống y tế, giáo dục tốt…Các khả năng, năng lực hạn chế hoăc bị phá vỡ gây khó khăn cho việc cải thiện cuộc sống và tái đầu tư để củng cố, phát triển năng lực cá nhân, gia đình, cộng đồng. Chất lượng nguồn nhân lực thấp lại cản trở sự phát triển bền vững của xã hội. Do vậy, mỗi cá nhân phải tự vượt qua chính mình. Bằng ý thức trách nhiệm với bản thân, bằng sự nỗ lực, rèn luyện, phấn đấu vươn lên về mọi mặt, vượt qua những thách thức, khó khăn, những hạn chế và rào cản từ mọi phía, mỗi cá nhân tự hoàn thiện, tự khẳng định với vai trò chủ thể của tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình. Cùng với tư cách  con người cá nhân, con người còn tồn tại với tư cách con người xã hội. Mỗi cá nhân cần phải có trách nhiệm chung với toàn xã hội trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, chống bất công, tệ nạn, thói hư tật xấu... để vươn tới cuộc sống ngày càng tốt đẹp và hạnh phúc. Trong khi tự hoàn thiện bản thân để đảm bảo cuộc sống ổn định và bền vững, đồng thời tham gia các nghĩa vụ xã hội, mỗi cá nhân lại thúc đẩy sự phát triển bền vững của xã hội; họ chính là động lực và là mục tiêu của sự phát triển xã hội bền vững.

         Nhà nước có chức năng xã hội là quản lý, tổ chức, điều hành hoạt động của các tổ chức, cá nhân nhằm thúc đẩy sự phát triển xã hội bền vững về mọi mặt. Nhà nước là chủ thể tối cao có vai trò quan trọng trong việc đề ra mục tiêu, hoạch định đường lối, chính sách, ban hành pháp luật và sử dụng các công cụ có sức mạnh, vừa động viên, khuyến khích, vừa chế định rõ ràng cụ thể. Nhà nước hoạch định và thực thi các chính sách về xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người dân, đảm bảo an sinh xã hội, phát triển giáo dục và đào tạo....Để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững về xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường nhiều rủi ro, phức tạp, nhà nước cần nâng cao năng lực quản lý, điều hành hoạt động thông qua hệ thống giám sát từ trung ương đến địa phương; thực hiện tốt quy chế dân chủ; đào tạo đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm; có cơ chế giám sát và phòng chống quan liêu, tham nhũng...

          Các tổ chức xã hội trong nước và quốc tế, cộng đồng, doanh nghiệp... có vai trò hết sức quan trọng, cùng chia sẻ trách nhiệm và nghĩa vụ, quyền và lợi ích với nhà nước và cá nhân. Bởi lẽ, mục tiêu phát triển bền vững là vô cùng to lớn, đó là mục tiêu chung, vì lợi ích chung của toàn nhân loại. Do vậy, không một tổ chức, cá nhân nào có thể hay có quyền xem nhẹ, thờ ơ, hoặc vì lợi ích riêng mà làm trái với những nguyên tắc của phát triển bền vững.

          Để phát triển xã hội bền vững, trước hết cần phát triển con người một cách bền vững, hay làm tăng năng lực và phạm vi lựa chọn của con người để họ có một cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc. Cần phải có sự đầu tư thường xuyên, lâu dài bằng các thể chế, chính sách vừa dài hạn, vừa rõ ràng, cụ thể. Cần có sự phân chia phù hợp với các nhóm đối tượng có các đặc trưng khác nhau về vùng miền, giới tính, nghề nghiệp, tầng lớp xã hội, thậm chí cả sự khác biệt về tôn giáo hay truyền thống văn hoá. Chiến lược phát triển con người cần được xem xét trên nhiều phương diện, vừa nâng cao năng lực mọi mặt của con người, vừa tạo điều kiện phát huy tối đa các năng lực đó nhằm vươn tới mục đích cuối cùng là mang lại cuộc sống tốt đẹp, mang lại tự do, giải phóng con người.

Ở Việt Nam, phát triển con người được coi là vấn đề trung tâm của chiến lược phát triển, là nhiệm vụ lâu dài của Đảng, Nhà nước và toàn dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, mục tiêu cao cả của cách mạng là mang lại hạnh phúc, tự do cho nhân dân. Người nói: “Nếu nước độc lâp mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa gì.(6)” Mục tiêu tổng quát mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X  Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra là: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục… giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.(7)

Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt những thành tựu đáng tự hào về phát triển con người. Tỉ lệ nghèo đói đã giảm từ trên 70% vào những năm 80 xuống xấp xỉ 20% trong năm 2008. Tuổi thọ trung bình đạt 72 tuổi. Tỉ lệ người lớn biết chữ đạt trên 90%. Chỉ số phát triển con người HDI tăng từ 0,611 năm 1992 lên 0,733 năm 2007. Đầu tư cho lĩnh vực xã hội chiếm trên 25% ngân sách nhà nước, trong đó đặc biệt ưu tiên cho xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, giáo dục đào tạo và các dịch vụ xã hội cơ bản khác. Nhiều chương trình quốc gia về phát triển xã hội đã và đang được thực hiện. Đó là bằng chứng cho thấy chiến lược phát triển con người ngày càng giữ vị trí quan trọng và được đầu tư đúng mức. Nhờ vậy, chất lượng cuộc sống của đại bộ phận người dân Việt Nam được cải thiện đáng kể.

Tuy nhiên, mục tiêu phát triển con người ở Việt Nam trong giai đoạn trước mắt vẫn còn nhiều thách thức. Thành tựu về xóa đói giảm nghèo chưa thật vững chắc. Tỉ lệ nghèo đói, cận nghèo đói, tái nghèo ở một số vùng vẫn còn cao. Mức thu nhập bình quân trên đầu người vẫn thuộc vào loại những nước thấp nhất trên thế giới. Sức ép về dân số tiếp tục gia tăng, tình trạng thiếu việc làm vẫn là vấn đề bức xúc, đe dọa cuộc sống người dân. Chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới mà nguyên nhân quan trọng là chất lượng giáo dục - đào tạo còn thấp, chậm đổi mới, thậm chí còn có những biểu hiện yếu kém, tiêu cực. Việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội chưa được thực hiện tốt. Trái lại, khoảng cách giàu nghèo, phân tầng xã hội có xu hướng tăng nhanh trong nền kinh tế thị trường khiến cho những người nghèo nhất lại càng khó khăn hơn, ít cơ hội hơn trước.

Từ thực tiễn phát triển đất nước trong thời gian qua, Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm và cũng là tư tưởng chỉ đạo trong thời gian tới : “Phát triển nhanh phải đi đôi với nâng cao tính bền vững...Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Phải rất coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển”(8). Quan điểm đó của Đảng ta đã thể hiện rõ sự quan tâm đầy đủ tới cả ba mục tiêu của phát triển xã hội theo hướng bền vững: bền vững về sinh thái, bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội. Để đạt mục tiêu trên, trước hết và trên hết phải nêu cao vai trò của con người với tư cách là chủ thể tích cực của quá trình tác động cải tạo tự nhiên, biến đổi tự nhiên; là chủ thể, là động lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế, đồng thời là mục tiêu cao nhất của sự phát triển kinh tế-xã hội. Có thể thấy, quan điểm của Đảng ta hoàn toàn phù hợp với những tuyên bố quốc tế về phát triển bền vững, trong đó nổi lên tư tưởng lấy con người là trung tâm của sự phát triển; đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân như một nguyên tắc nhất quán trong mọi giai đoạn phát triển.

Nguồn: / 0

Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý tưởng và hiện thực vào nghiên cứu lý luận chính trị ở nước ta hiện nay

Triết học

Bài viết phân tích sự vận dụng nguyên tắc về sự thống nhất giữa lý tưởng và hiện thực của chủ nghĩa Mác - Lênin vào việc nghiên cứu lý luận chính trị ở nước ta hiện nay. Theo tác giả, sự thống nhất giữa cái lý tưởng với cái hiện thực không chỉ là yêu...

Bước đầu tìm hiểu những vấn đề lịch sử về xung đột xã hội

Triết học

Xung đột xã hội và đồng thuận xã hội là những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Trong bài viết này, tác giả đã khảo sát các quan niệm khác nhau trong lịch sử về xung đột xã hội, từ thời cổ đại,...

Trách nhiệm xã hội và vai trò của nó trong cơ chế thị trường ở nước ta

Triết học

Khẳng định trong bối cảnh toàn cầu hoá và phát triển kinh tế thị trường, việc thảo luận những vấn đề bản thể của trách nhiệm xã hội là cần thiết, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và phân tích những quan niệm khác nhau về trách nhiệm xã hội, về...

Xu hướng phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế

Triết học

Trên cơ sở khái quát hoá quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về giai cấp công nhân, tác giả đã phân tích sự biến đổi của giai cấp công nhân hiện đại trên thế giới về trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp, về quyền sở hữu,… Đặc biệt, tác giả đã rút ra...

Về một số thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài

Triết học

Trao đổi về một số thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, trong bài viết này, tác giả đã khẳng định cách phiên âm tên địa phương và tên người ra tiếng Việt tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng vẫn còn chưa thống nhất;...

Học thuyết Mác và vấn đề hoàn thiện các yếu tố của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay

Triết học

Dựa trên quan điểm của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội nói chung, về phát triển lực lượng sản xuất nói riêng, trong bài viết này, tác giả đã làm rõ một số nguyên tắc, phương châm cơ bản trong việc vận dụng quan điểm của C.Mác nhằm phát...

Lý luận xây dựng xã hội hài hoà của Trung Quốc và công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Triết học

Trong bài viết này, tác giả đã trình bày một cách khái quát tư tưởng về sự hài hoà của một số nhà triết học, đồng thời nêu ra một số nội dung cơ bản nhất của lý luận xây dựng xã hội hài hoà của Trung Quốc. Đặc biệt, tác giả đã phân tích để làm rõ...

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách

Triết học

Bài viết tập trung phân tích nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, vai trò của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp và một số vấn đề đặt ra trong việc thực thi trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp ở Việt Nam. Theo tác...

Bảo đảm công bằng xã hội vì sự phát triển bền vững

Triết học

Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam coi công bằng xã hội là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Để có được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, cần phải xác định và thực hiện đúng...