Danh sách bài viết

Văn Cao - “Cụ Quốc ca”

Cập nhật: 28/12/2017

Văn Cao - “Cụ Quốc ca”

 

Nguyễn Thụy Kha

Văn Cao là một bậc tài danh của nền văn nghệ Việt Nam hiện đại. Tầm vóc ấy đã được cả dân tộc khẳng định. Anh em bằng hữu, đồng nghiệp thì thường gọi ông là “Cụ Văn” hay “Cụ Quốc ca”.

Tài danh của Văn Cao đặc biệt nhất là việc ông tự tỏa mình vào ba loại hình nghệ thuật là âm nhạc, thi ca và hội họa. Đặc biệt hơn là trong cả ba loại hình đó, ở loại hình nào cũng thấy ám ảnh bóng dáng của hai loại hình kia. Trong thơ thì thấy ấn tượng của âm nhạc và hội họa. Trong họa thì thấy dào dạt chất nhạc và chất thơ, độc đáo rõ nét là ở trong các bức tranh lập thể. Còn trong nhạc thì cũng thấy thật trào dâng chất thơ trong ca từ, chất hội họa trong đường nét giai điệu.

Vốn liếng âm nhạc đầu đời của Văn Cao thực sự chỉ là những tiết học nhạc lý tại Trường Saint-Joseph (nay là Trường Phổ thông cơ sở Ngô Quyền) Hải Phòng, đối diện sông Lấp. Vốn liếng thi ca cũng là ở đó. Còn hội họa thì là khi ông lên học dự thính tại Trường Mỹ thuật Đông Dương. Nhưng tất cả những kiến thức đó đều chỉ nhằm để phục vụ cho việc phát lộ ra một tài năng “trời cho” ở Văn Cao.

16 tuổi, mùa thu nghe tin cả Hà Nội tiễn đưa nhà văn yểu mệnh nhưng cực kỳ nổi tiếng Vũ Trọng Phụng, nhạc phẩm đầu tiên - Buồn tàn thu của Văn Cao đã ra đời. Bài hát với hơi hướng của Ca trù, với phong vị Đường thi ở lời ca, đã mang một tiếc nuối về những sự ra đi không trở lại: “Đêm mùa thu chết. Nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng…”.

18 tuổi, sau chuyến du hành phương Nam trở về Hải Phòng, vào một buổi chiều lênh đênh Ca trù trên dòng sông Phi Liệt miền Thủy Nguyên mây nước, động lòng cùng khúc Thiên Thai cổ, Văn Cao đã đi tới tột cùng một tưởng tượng về cõi thần tiên ở Việt Nam bằng trường ca Thiên Thai dù lời ca vẫn dựa vào tích Lưu Nguyễn xa xưa. Có lẽ gửi gắm sâu sắc nhất mà Văn Cao muốn chuyển tới chúng ta là hãy tìm ra cõi thiên thai của mình ngay trong cuộc sống: “Thiên Thai / ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian / ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần…”.

Thiên Thai chính là khát vọng sống được thăng hoa chất ngất, vượt thoát mọi cản ngăn. Về âm nhạc, trong Thiên Thai bên cạnh việc tiếp tục khai thác âm hưởng Ca trù, cụ thể là hơi “thét nhạc”, Văn Cao đã bắt đầu chú ý tới những chuyển điệu xa. Thiên Thai là nền móng vững chãi để Văn Cao bước tới Sông Lô chảy lai láng trong kháng chiến sau này.

Không chỉ học tập phương Tây, Văn Cao đã ý thức được việc cần “Việt hóa” khúc thức phương Tây. Điều đó thấy rõ ở Suối mơ. Ngoài việc lời ca lãng mạn đến mức Vũ Bằng phải nắc nỏm ngợi khen: “Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi…”, Văn Cao còn diễn tả tình yêu theo cách dùng dằng kiểu “các cụ ta” bằng cách đưa một đoạn đệm vào giữa đoạn đầu và đoạn cuối của thể hai đoạn đơn: “Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối …”. Những đảo phách của đoạn đệm đã tạo đà rất hiệu quả cho chuyển từ điệu thứ ở đoạn đầu sang điệu Trưởng cùng tên ở đoạn sau.

Từ tư duy thẩm mỹ thấu đáo, “từ một hạt cát nhìn thấy một đại dương”, tài năng trong sáng tạo âm nhạc của Văn Cao đã khiến cho Bến xuân từ một bài hát cụ thể tặng một bóng hồng, đã trở thành tình ca của mọi đôi lứa với phảng phất âm hưởng dân ca Chàm.

Và còn hơn thế, trở thành một tình yêu hòa hợp dân tộc khi hóa thân ra Đàn chim Việt, cùng những người lính Nam tiến vào mặt trận Nam Bộ hồi cuối năm 1945. Chính cội nguồn yêu nước, yêu dân tộc trong tâm hồn Văn Cao đã khiến ông không chỉ dừng lại ở việc giữ gìn bản sắc hay “Việt hóa” trong các nhạc phẩm của mình, mà còn thúc giục trong ông sự trực tiếp dấn thân vào những phong trào tranh đấu. Tham gia vào nhóm Đồng Vọng của huynh trưởng Hoàng Quý, những bài hát, những hành khúc yêu nước của Văn Cao tiếp tục ra đời, từ những Đêm rừngAnh em khá cầm tayChiều buồn trên sông Bạch Đằng… đến Thăng Long hành khúc caGò Đống Đa. Cách mạng đã nhận ra phẩm chất này ở Văn Cao. Ông đã tự nguyện đứng vào hàng ngũ của những người lao khổ để thét vang lên khát vọng độc lập tự do của dân tộc đang đắm chìm trong đêm đen nô lệ.

Mùa đông năm 1944, tại căn gác nhỏ 45 phố Mongrat (nay là 171 Nguyễn Thượng Hiền - Hà Nội), hành khúc Tiến quân ca - hành khúc đầu tiên Văn Cao dành cho lực lượng vũ trang của Việt Minh đã ra đời. Từ thời gian này, tính dự báo xã hội trong những sáng tạo âm nhạc của Văn Cao bắt đầu hiện rõ. Chiều 17-8-1945, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Tiến quân ca qua tiếng đàn harmonium của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Hiếu đã nổ ra như một trái bom báo trước thời khắc Tổng khởi nghĩa.

Cùng với Tiến quân ca, rầm rập khí thế trong cao trào Cách mạng tháng Tám là những Chiến sĩ Việt Nam viết về bộ binh và kỵ binh, là Không quân Việt NamHải quân Việt Nam và hành khúc dành cho lực lượng dân quân du kích là Bắc Sơn viết cho vở kịch cùng tên của Nguyễn Huy Tưởng.

Tính dự báo còn khiến cho Văn Cao chỉnh lý lại trường ca Trương Chi“Ngồi đây ta gõ ván thuyền / Ta ca trái đất còn riêng ta”mang khát vọng về một xã hội tốt đẹp sẽ đến với đất nước thân yêu của chúng ta. Với khả năng dự báo ấy, Văn Cao còn viết hành khúc Tiến về Hà Nội từ 5 năm trước sự kiện này xảy ra vào 10-10-1954.

Dự báo và “Việt hóa” âm nhạc Việt là đóng góp lớn của Văn Cao cùng nhiều đồng nghiệp trong tiêu chí Đề cương Văn hóa năm 1943 của Đảng: “Dân tộc - Khoa học - Đại chúng”. Nhịp valse là nhịp múa của cung đình châu Âu, nhưng khi vào Việt Nam, nó đã được “Việt hóa” thành những bản “làng ca”. Với Văn Cao đó là Làng tôi và Ngày mùa.

Tiếng còi tàu xe lửa vang lên ở ga Hàng Cỏ vào Văn Cao cũng hóa thành “công nhân ca”. Chân dung lãnh tụ Hồ Chí Minh như một “Tay công nhân của thế giới mới lên” cũng được Văn Cao khắc họa nên một tầm vóc với tư tưởng lớn “đem tới ngày vui” cho dân tộc bằng một bút pháp rất Văn Cao. Trong năm dòng sông Lô bằng âm thanh là Lô Giang của Lương Ngọc Trác, Chiến sĩ sông Lô của Nguyễn Đình Phúc, Chiến thắng sông Lô của Lưu Hữu Phước, Tiếng hát bên sông Lô của Phạm Duy, trường ca Sông Lô của Văn Cao vẫn là tác phẩm âm nhạc vạm vỡ nhất, lai láng như một bức tranh hoành tráng và thấp thoáng cả hình ảnh của một binh chủng pháo binh sau này góp phần tạo nên chiến thắng Điện Biên. Mang dáng dấp cấu trúc trường ca Sông Đa-nuýpcủa 
J. Strauss, nhưng trong cấu trúc ấy lại chứa chất những tiết tấu của hành khúc, dân vũ vùng núi phía Bắc và đặc biệt là nhịp chèo thuyền của người dân chài miền sông nước trung du.

Nhiều năm sau Hiệp định Genève, Văn Cao lại âm thầm chuyển tải nỗi đau chia cắt đất nước bằng bộ ba tiểu phẩm viết cho piano là Sông tuyếnHàng dừa xaBiển đêm. Năm 1963, ông lại thét lên ý chí thống nhất của toàn dân tộc qua hành khúc Dưới cờ giải phóng.

Về nhạc cho kịch, cho phim, ấn tượng nhất là tổ khúc giao hưởng Anh bộ đội Cụ Hồ ông viết cho Xưởng phim Quân đội trong một bộ phim dài nhiều tập trong đó có ca khúc do ca sĩ Duy Tân thu thanh.

Ông lại tự đắm chìm trở lại miền Tây Bắc nơi ông đã cùng Nguyễn Tuân và Nguyễn Huy Tưởng đi thực tế sáng tác năm 1958, qua giai điệu ăm ắp âm hưởng dân ca Hmông là Đường dây qua bản. Hợp xướng Hải Phòng mở ra biển lớn cũng sừng sững một tầm vóc riêng.

Tất cả những lặng lẽ tự chuyển mình trong bút pháp của Văn Cao bằng sự tự học miệt mài đã giúp cho ông tự trở thành một nhạc sĩ có tầm cỡ như nhiều nhạc sĩ thế hệ ông được tu nghiệp ở nước ngoài. Và nó đã tạo ra sự chín của ông trong Mùa xuân đầu tiên viết vào mùa xuân 1976 thống nhất đất nước. Vẫn là sự “Việt hóa” nhịp valse, vẫn là sự hòa đồng với âm nhạc thế giới, nhưng những chuyển điệu của ông ở đoạn giữa thể ba đoạn đơn a-b-a cho thấy một khúc khải huyền mang tư tưởng hòa bình của nhân loại: “Từ đây người biết quê người / Từ đây người biết yêu người / Từ đây người sống yêu đời”.

Từ năm 1983, khi Văn Cao trở lại cương vị ủy viên Ban chấp hành Hội Nhạc sĩ Việt Nam sau cuộc vận động sáng tác quốc ca mới không đạt kết quả. Ông càng trẻ lại khi được đi tới nhiều vùng đất chia sẻ cùng các văn nghệ sĩ trẻ. Hành khúc Công nhân toa xe được ông viết rất trẻ trung và hào sảng cuối năm 1984.

Tình ca trung du được xem như một nhạc phẩm cuối cùng của Văn Cao như để trả nghĩa cho nơi ông từng hiến dâng mình trong kháng chiến chống Pháp: “Một cánh tay sông Hồng - Một cánh tay sông Lô - Hai cánh tay như ôm trung du”.

Dâng hiến trong âm nhạc của “Cụ Quốc ca” là vậy. Từ năm 1988, tất cả những nhạc phẩm của Văn Cao đã được giới thiệu trở lại cùng đời sống và nó đã để lại một ấn tượng mạnh mẽ mà Trịnh Công Sơn từng gọi đó là những tinh túy nhạc Việt của “Ông Hoàng âm nhạc” từ Buồn tàn thu đến Mùa xuân đầu tiên da diết.

Trong một bài thơ ngắn, Văn Cao từng tâm sự: “Tôi không đi qua tôi - để lại gì?”. Băn khoăn ấy chính là tất cả những gì Văn Cao để lại cho chúng ta. Ông đã để lại tất cả thành thật và đam mê cho mọi thời đại văn nghệ.

Nguồn: / 0

Không gian Văn hóa Sáng tạo Việt Nam – Kỷ yếu dự án

Nghệ thuật và Âm nhạc

Dự án Không gian Văn hóa Sáng tạo Việt Nam được đồng tài trợ bởi Liên minh châu Âu và Hội đồng Anh, và do Hội đồng Anh phối hợp với Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam thực hiện trong vòng ba năm kể từ 2018 đến năm 2021

Cổ và mới

Nghệ thuật và Âm nhạc

Dân tộc và hiện đại quả là vấn đề thế kỉ, vì giới nhạc bàn luận đã lâu mà vẫn chưa thấu, thử nghiệm cũng nhiều mà vẫn chưa thỏa. Khúc mắc nảy sinh nhiều khi là do dân tộc - hiện đại được hiểu được hành không chỉ như hai vế đối lập của các cặp phạm...

Quách Thị Hồ - Sênh phách giọng sầu gửi bóng mây

Nghệ thuật và Âm nhạc

Quách Thị Hồ - Sênh phách giọng sầu gửi bóng mây Tiếng hát của Quách Thị Hồ đẹp và tráng lệ như một tòa lâu đài nguy nga, lộng lẫy, mà mỗi tiếng luyến láy cao siêu tinh tế của bà là một mảng chạm kỳ khu của một bức cửa võng trong cái tòa lâu đài...

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý - bậc lão làng trong nền âm nhạc Việt Nam

Nghệ thuật và Âm nhạc

Những năm sống trên miền Bắc, tôi chưa có dịp được làm quen với nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý. Mãi đến năm 1976, anh Nguyễn Văn Tý mới chuyển vào Sài Gòn, cùng với tôi công tác trong Viện Nghiên cứu Âm nhạc Việt Nam do Giáo sư nhạc sĩ Lưu Hữu Phước làm Viện...

Vai trò của sáo trúc trong nghệ thuật chèo

Nghệ thuật và Âm nhạc

Nghệ thuật Chèo là một loại hình nghệ thuật truyền thống tiêu biểu và phát triển mạnh ở các vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Nghệ thuật Chèo được bắt nguồn từ cuộc sống lao động, sinh hoạt của nhân dân ta từ hàng ngàn năm nay và nó đã chiếm một vị trí...

Bộ ba Nhạc huyền ở đình làng Nam Bộ

Nghệ thuật và Âm nhạc

Nhạc huyền (Nhạc treo) là bộ phận âm nhạc chủ yếu sử dụng những nhạc khí đặt trên giá hay treo trên dây, như trống lớn, khánh đá, chuông đồng... Trong số này, có những nhạc khí đứng lẻ loi một mình, như Kiến cổ, Đại cổ (trống lớn), Đặc khánh (khánh...

Người bén duyên Hò khoan Lệ Thủy

Nghệ thuật và Âm nhạc

Vừa từ Quảng Bình ra, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vỹ gọi điện bảo tôi xuống ông ngay "có món này hay lắm". Tưởng là món nhậu gì đó, hóa ra không phải. Ông mở cho xem cuốn băng do Viện Âm nhạc vừa ghi hình về Hò khoan Lệ Thủy do chính...

Nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa với xẩm: Bồng bềnh một cõi mơ…

Nghệ thuật và Âm nhạc

Những ai yêu bộ môn nghệ thuật hát xẩm, hẳn không lạ lẫm gì với nữ nghệ sĩ Mai Tuyết Hoa trong nhóm nghệ sĩ xẩm Hà Thành. Chị chính là cô học trò nhỏ của nghệ nhân Hà Thị Cầu, người đã được bà Cầu khi còn ở dương thế âu yếm nói với những người làm...

NGHỆ THUẬT MÚA

Nghệ thuật và Âm nhạc

KHÁI QUÁT MÚA ĐƯƠNG ĐẠI VÀ CÁC PHẦN BÀI HỌC CƠ BẢN TRONG MÚA ĐƯƠNG ĐẠI I. Khái quát Múa đương đại: "Múa đương đại" là một từ buzz phổ biến trong ngành công nghiệp giải trí ngày hôm nay, nhưng ngay cả các vũ công chuyên nghiệp và biên đạo múa đã...