Nguyễn Quán Nho

Dân gian Thanh - Nghệ có câu “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Nhưng đất quê Thanh Hóa không chỉ sinh ra nhưng triều vua nức tiếng trong lịch sử mà còn là vùng đất của những danh sĩ nổi bật thời phong kiến như: Lê Văn Hưu, Lê Quát… và Nguyễn Quán Nho (1637 - 1708) danh thần thời Lê - Trịnh là một trong số đó.

QUAN TRẠNG VỚT BÈO

Dân gian Thanh - Nghệ có câu “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Nhưng đất quê Thanh Hóa không chỉ sinh ra nhưng triều vua nức tiếng trong lịch sử mà còn là vùng đất của những danh sĩ nổi bật thời phong kiến như: Lê Văn Hưu, Lê Quát… và Nguyễn Quán Nho (1637 - 1708) danh thần thời Lê - Trịnh là một trong số đó.

Có chí thì nên

Nguyễn Quán Nho sinh ra tại làng Vị Hà, huyện Thụy Nguyên, phủ Thuận Thiên (nay là huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Mồ côi cha từ bé, nhà nghèo hai mẹ con sống lay lắt qua ngày bằng nghề mò cua, bắt ốc, đan thừng. Khi Quán nho được 5, 6 tuổi cậu đã biết đỡ đần mẹ trong việc nhà. Có lần vào ngày đông tháng giá trong nhà không còn hạt gạo, mẹ con không đi làm được, cậu bé Nguyễn Quán Nho liền sang nhà hàng xóm mượn nồi về nấu cơm nhưng kì thực là vét lại những hạt cơm cháy thừa dưới đáy nồi, nhờ đó hai mẹ con cầm cự qua cơn đói. Hàng xóm thấy lạ là khi Quán Nho trả nồi bao giờ nồi cũng sạch bong, họ dần hiểu chuyện, nhiều người khi cho mượn nồi cố tình để lại nhiều cơm cháy cho hai mẹ con.

Cái ăn đã thiếu thốn, sự học còn vất vả trăm bề. Chàng họ Nguyễn thấy bạn bè đi học cũng yêu thích muốn theo nhưng nhà nghèo không có tiền mua bút, sách. Lúc mẹ đi làm thuê cho nhà giàu cậu đi theo, áp tai vào vách nghe thầy giảng bài cho con chủ, lại lấy que củi vạch chữ lên nền đất. Nhờ sáng dạ, chăm chỉ chẳng bao lâu Quán Nho đã thuộc mặt các con chữ. Để học được chữ, cậu dùng gai viết lên các khúc thân xương rồng. Xương rồng nhiều gai, lắm mủ lại cồng kềnh khi mang theo, Chàng Nho tìm cách viết trên lá chuối đóng thành xếp, lá chuối héo, chữ cũng nhăn nheo. Thế là Quán Nho viết lên các tàu lá chuối tươi khắp vườn nhà, vườn chuối nhà cậu trở thành những cuốn sách sống động.

Đêm đến đèn dầu không có để thắp, Quán Nho học cách của Lưỡng quốc trang nguyên Mạc Đĩnh Chi lấy đom đóm bỏ vào vỏ trứng gà làm đèn. Dưới ngọn đèn của sự nghèo khó mà cần cù, cậu học trò nghèo sôi kinh nấu sử không thôi.

Vượt qua đói rét, khó khăn, khoa thi năm Đinh Mùi (1667) niên hiệu Cảnh Trị đời vua Lê Huyền Tông, cậu học trò lấy lá chuối làm vở, lấy que củi làm bút đã đỗ Đồng Tiến sĩ. Một tấm gương sáng về sự học đã thành danh.

 

Quan trạng vớt bèo

Ngày tân khoa Nguyễn Quán Nho vinh quy bái tổ về làng, hàng tổng hàng huyện tấp nập kiệu cáng, cờ quạt rước xách ông. Lúc này mẹ Quán Nho biết con đã hiển vinh nhưng vẫn bình thản ra ao làng vớt bèo về nuôi lợn, lý trưởng làng Vạn Hà mời bà về dự lễ rước quan trạng cùng dân, bà gạt đi mà rằng:

- Nó thi đỗ là việc của nó sao lại phải đón rước, tôi đang bận vớt bèo!

Quan nghè Nguyễn Quán Nho nghe kể lại vội vàng xuống khỏi võng đièu, cởi áo gấm, phẩm phục, xắn quần chạy ra ao làng cầm gậy gom bèo lại vớt bèo cùng mẹ cho đến khi đầy rổ hai mẹ con mới về dự tiệc cùng làng. Về sau ca dao xứ Thanh có câu thành ngữ lưu truyền việc này: “Vinh quy bái tổ sau rổ bèo đầy”.

Sau khi làm lễ vinh quy bái tổ, Nguyễn Quán Nho làm quan ở Ninh Bình, công việc bận bịu ông không về thăm mẹ được nên gom góp tiền bổng lộc sắm cho mẹ già chiếc áo lụa nhân dịp Tết, sai lính đem về. Mẹ ông giở ra thấy tấm áo cả đời khó nhọc bà chưa từng được mặc, nhưng bà tỏ ra không vui vì nghĩ đây là của bất chính, bà bảo “Bổng lộc của quan là dầu mỡ của dân hay sao”. Nói rồi bà đốt tấm áo, gói nắm tro gửi lại cho quan nghè. Mở gói quà chỉ còn nắm tro, Quán Nho hiểu thâm ý của mẹ rằng làm quan phải sống thanh liêm, không được bòn rút đục khoét của dân lành. Suốt đời ông thực hiện đúng lời mẹ dặn.

 

Yêu dân như con

Ở chốn quan trường, Nguyễn Quán Nho thênh thang con đương quan lộ khi lần lượt kinh qua nhiều chức cao: Phó đô Ngự sử - 1684; Tả Thị lang Bộ Lại – 1691; Thượng thư Bộ Binh rồi Thượng thư Bộ Lại – 1692; 5 năm làm Tể tướng, từng nắm chức thượng thư Bộ Lễ tước Hương giang bá. Nhà nước có sáu bộ thì ông đã từng đứng đầu ba bộ. Làm quan trải qua bốn đời vua từ Lê Huyền Tông (1662 – 1671) cho đến Lê Dụ Tông (1679–1731), lại năm lần đi sứ Trung Quốc… Giữ chức cao là vậy nhưng ông sống thanh bạch để lại tiếng tốt cho đời, được nhân dân ca tụng là “Tể tướng Vạn Hà, thiên hạ âu ca”. Có lần về quê thấy dân đang làm đường, đắp đê sông Chu, ông cho voi và quân lính ra phụ dân, người Vạn Hà xúc động ngâm nga “Ai về làng Vạn mà coi. Coi ông quan Thượng cho voi làm đường”.

Ngày 12 tháng 10 năm Mậu Tý (1708) ông mất, dân quê ông khóc thương mãi không thôi “Chàng về Vạn Vạc chàng ơi. Con chàng bỏ đói ai nuôi cho chàng”. Sách Đại Nam quốc sử diễn ca ghi nhận người con quê Thanh này là “Bởi ai thiên hạ âu ca. Chẳng quan Tham tụng Vạn Hà là chi”. Về nơi Cửu tuyền ông được nhà Lê phong là Trung đẳng thần, đến thời Nguyễn gia phong là Cương ý rực bảo trung lương, thượng đẳng thần. Năm 1993 ông được nhà nước ta công nhận là Danh nhân văn hóa cấp quốc gia.

Ngày nay đến thăm đền thờ ông tại thôn Dương Hòa xã Thiệu Hưng, huyện Thiệu Hóa của tỉnh Thanh, người dân Vạn Hà còn mãi truyền tụng về gương sáng hiếu học của chàng Nguyễn Quán Nho mà họ yêu mến gọi bằng cái tên “chàng Cháy”.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Kẻ chăn trâu kì dị, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 1990

2. Những người con ưu tú đất Thiệu Hóa (Tạ Quang biên soạn), năm 2006

 

Nguồn: Trần Đình Ba, Cử Nhân Khoa Học Ngành Lịch Sử