ÂM NHẠC LỐI HÁT Ả ĐÀO _TRỐNG CHẦU

 

NGUYỄN XUÂN KHOÁT

     Trong cuộc sinh hoạt của người Việt Nam ta, mỗi khi phải dùng đến âm nhạc thì thế nào cũng có " trống".
     Vào ngày hội ngày hè, kì sưu thuế, vụ đê dịch,  thì chiếc "trống cái" oai nghiêm hay thúc giục đã làm vang động cả làng xóm: khi thì có bộ " trống cà rung" , long trọng và đường hoàng; Buồn tẻ như chiếc "trống cơm" "trống bản" thì dùng vào việc đưa đám, khi nào phải báo hiệu hay ra lệnh thì có chiếc trống khẩn, còn như hát chèo, hát tuồng, cúng bái , thì phải dung đến mấy thứ trống một lúc cả "trống cái" "trống đế" lẫn "trống cơm"; Riêng về lối hát ả đào này: có một chiếc "trống chầu" thôi (cao khoảng 15 phân, mặt rộng 15 phân).  

      Tuy ở người cầm trống, tiếng trống có khi nghiêm chỉnh, có khi cợt nhả,  có khi vang như ng bao giờ cũng có một công dụng rõ rệt: điểm mạnh điều khiến cho ta cảm thấy rõ ràng sự hết đoạn sự hết câu.

Công dụng của tiếng trống chầu
    Biết được công dụng chiếc cột của gian nhà gỗ, hiểu được tại sao cột lại phải là một cái vừa to , vừa lớn và nhận được những cái cột phải dựng thì không có nhẽ nào lại không biết sự ích lợi của tiếng trống, vì sao tiếng trống lại phải là một thanh âm kêu và mạnh và những lúc nào phải điểm trống khi nghe âm nhạc bằng con mắt nhà kiến trúc, coi đoạn nhạc của lối hát Việt Nam này như là một gian nhà gỗ mà điệu phách là xà ngang mà tiếng trống với tiếng chát là tiếng khen.
    Đọc tới đây, chác các bạn đọc âm nhạc Âu - Tây thấy rằng tiếng trống của mình có một công dụng như những tiếng trầm (basses) trong âm nhạc Âu - Tây , chỉ khác là đằng này là một viên đá to và nặng dùng làm nền móng. Những tiếng bổng, chìm cùng một hợp âm  trong một bản nhạc Âu- Tây đã xếp đặt lên nhau đã hoà hợp vào với nhau như gạch, đá , vôi  cát của một bức tường - Âm nhạc Âu-Tây là chiếc nhà gạch, âm nhạch Đông - Phương là gian nhà gỗ.

Tiếng trống trong khúc nhạc giáo đầu
    Biết được chiếc xà dài ngắn tới đâu thì việc dùng cột cho chắc nhà không còn là khó nữa ; nên ở khúc nhạc giáo đầu này tôi đã chỉ biên những điệu phách thôi, vì công việc bào gọt chiếc cột sao cho tròn cho ngay ngắn đặt cột sao thoáng sao cân đối nghĩa là công việc nắn nót tiếng trống sao cho xinh cho tròn, điểm trống thế nào cho tài tình là thuộc về phận sự của người cầm trống.

Người cầm trống
    Là một thính giả, nên ngoài cái phận sự một nhạc công, người cầm trống còn có phận sự người biết nghe nữa: nghĩa là ngoài việc điểm cho đủ tiếng trống, có sáng kiến lựa chọn xếp đặt tiếng trống với tiếng chát có tứ biết bài nào nên rậm tiếng bài nào nên thưa tiếng, bài nào phải đứng đắn, bài nào có thể bay bướm đùa rỡn được, người cầm trống còn phải biết chữ nào, tiếng hát nào, tiếng đàn nào nên thưởng nên khen nữa.
    Có làm một nhạc công thì mới hiểu được rằng sự thông cảm của thính giả cần cho việc tấu nhạc là thế nào; cho nên thiết tưởng không còn có cách nào hoàn toàn, kín đáo, tỉ mỉ để tỏ rằng thính giả hiểu biết là giao cho thính giả một nhạc khí buộc thính giả vào một chức vụ .
Một chức vụ không dễ dãi, không vắn tắt, không a dua như việc vỗ 2 bàn tay vào nhau để khen. Một chức vụ mà phải thính tai (khen tiếng đàn tiếng hát) phải thông minh (trọn khổ trống, chấm câu văn) phải mất nhiều công phu (gọt tiếng trống) phải có bản năng (cảm thấy điệu ) phải có óc sáng tác (đặt bài hát, xếp tiếng trống) thì mới làm được trọn và lẽ tất nhiên khi đã cầm được trống hẳn có nhiều thú vị.

     Tiếng phách cuối cùng của một khúc nhạc giáo đầu này đã gieo... Đào nương bắt đầu lên tiếng hát:
"Đàn ai một tiếng dương tranh?
" Chưng thủa ngọc- ô chừng não nùng! chiều ai oán!..."

Đàn đáy

    Một cây đàn đáy, bất cứ là đã sinh ra ở một xứ nào, thuộc về một loại nhạc khí nào , bao giờ cũng có một tính cách riêng do ở hình thù và bản chất của nó.
    Như cây đàn đáy của ta đây vì thùng đàn bé (hình chữ nhật một bề 30 phân, một bề 18 phân dày 9 phân) mặt hậu không có , dây bằng tơ nên âm thanh nghe không vang và không trong có vẻ dìu dìu , đùng đục.
   Nghe tiếng đàn đáy ta có cảm giác đứng trong một cung điện âm u , hay trước một phong cảnh bị phủ dưới một làn sương mù.
   Lúc hoà nhạc thanh âm đàn đáy lại yếu, nên thường thường thấy lẫn vào với phách với giọng hát như , đã hiểu nghĩa đoàn thể, không cần ai biết tới, dù mình đã làm được việc. Chỉ thỉnh thoảng, khi trường hợp bắt buộc, mới chịu suất đầu lộ diện mà vẫn nhũn nhặn khiêm tốn.
   Nhờ những dịp đó ta mới thấy được rằng cây đàn đáy tuy chỉ có ba dây lên cánh nhau bốn bậc (accordé enquarte) chỉ có mười hai phím mà có thể nảy ra được bao nhiêu tiếng (3 octaves, ba cung tám bậc) có thể biến được sang bao âm thể.
   Đấy là những đức tính mà ta không thể tin rằng cây đàn đáy có thể có được nếu ta không biết cách " nhấn" của nhạc công Việt Nam trong lối âm nhạc này nghĩa là cái công dụng của cái cán đàn dài tới một thước hai (1m20) và cỗ phím cao chứng hai ba phân.
Khi đàn, người kép có phải chỉ "bấm" vào phím đàn không thôi đâu, ngón tay nhạc công có khi lại nhấn sâu xuống (vì phím cao) cho căng dây ra, cho tiếng lên; ví dụ: theo âm nhạc Tây , thì ở phím "do" có thể nhấn ra tiếng "do" diese "ré" hay rédiese; theo âm nhạc Tầu thì ở phím "công"có thể nhấn ra tiếng "liu" "ú" (cây đàn nguyệt cũng dùng cách nhấn này). Ngón tay nhạc công lại còn có thể nhấn cho trùng giây thấp tiếng xuống: ví dụ như ở phím "do" mà nhấn ra tiếng "si" hay si bemol ; ở phím công mà nhấn ra tiếng "xê"; một lối nhấn riêng của cây đàn đáy, vì dây, mắc dài (cán dài) có đủ sức chun lại được.
    Nhấn rồi mới gảy, đang nhấn thì gảy hay là gẩy rồi mới nhấn đấy là tất cả cái hoa tay cái bi thuận của nhạc công dùng để khiến cho một tiếng như riêng một mình nó cũng có đủ sức quyến rũ , một tiếng tầm thường trở nên một tiếng huyền ảo: một thứ tiếng mà hình như có ít nhiều tiếng rất mỏng bao phủ xung quanh.
   Một tiếng chỉ bấm không thôi mà nảy ra nó trơ trẽn bao nhiêu thì một tiếng nhấn ra nó có duyên bấy nhiêu.
   Nhấn ra tiếng đàn đã trở nên mềm ,dẻo như tiếng hát (nhất là tiếng hát Việt Nam); đã đi được đến chỗ hết sức tỉ mỉ của âm thanh và đã tả được những nỗi rất lắt léo của tâm hồn.
Lời bàn của Nicolas Obaow muốn cho thêm dây thêm phím vào cây đàn piano, có phải là để đi tới chỗ mà cây đàn đáy của ta đã đến từ bao giờ rồi không? (sau này tôi sẽ bàn tới ).

Điệu đàn đáy trong khúc nhạc giáo đầu
    Những tiếng nhấn ra thuộc về phần sáng tác của nhạc công, và một nhạc công lại có một khúc nhấn riêng nên ở khúc nhạc giáo đầu tôi đã chỉ biên ra những tiếng chính để các bạn đủ nhận thấy sự liên lạc về mạch điệu của đàn với phách; bởi vì âm thanh, đàn và phách không có mật thiết gì với nhau cả (một đằng thì có cao có thấp, một đằng chỉ một mực: rục , phách, chát thôi ).
   Tuy rằng khác mạch nhưng, điệu đàn, lẽ tất nhiên, không thể không đồng một ý nghĩa như điệu phách được.
   Ở "sòng đàn" mấy tiếng lấy đà (anacrouse) ở nhịp đầu; hai tiếng hoà với nhau nhắc đi nhắc lại ba bận ở nhịp thứ ba, tư , năm; những cung 4 bậc , 5 và 8 bậc (quarte quinte etoctave) ( thường thấy dùng trong những bản nhạc hùng dũng của nhà binh) đã khiến cho ta cảm thấy rõ ràng sự mạnh bạo, đột ngột cương quyết của sòng đàn.
   Còn như ở khổ giữa , khổ siết và lá đầu , điệu đàn đã mang lại cho ý nghĩa của những khổ phách một vẻ ảm đạm rất nhẹ nhàng mà vẫn rắn rỏi.
    Chắc các bạn có học âm nhạc Tây cũng nhận thấy rằng ở đoạn này điệu đàn đều lấy ở một hợp âm vị thành cung (accord parfait mineur).
   Một hợp âm sầu não, buồn rầu - nhưng cung (intervalle) vị thành tam cấp (tierce minere) và tiếng đứng cách âm chính không đầy ba bậc đã dùng đến rất ít (nguyên nhân sự buồn, sầu của hợp âm vị thành cung là do ở cung tam cấp và ở tiếng đứng cách tiếng chính không đấy ba bậc ) nên khúc đàn này không buồn, sầu chỉ dịu hẳn đi để làm rõ rệt thêm sự dột ngột của sòng đàn thôi .

( Thanh Nghị, số17, ngày 16-6-1942)NGUYỄN XUÂN KHOÁT

     Trong cuộc sinh hoạt của người Việt Nam ta, mỗi khi phải dùng đến âm nhạc thì thế nào cũng có " trống".
     Vào ngày hội ngày hè, kì sưu thuế, vụ đê dịch,  thì chiếc "trống cái" oai nghiêm hay thúc giục đã làm vang động cả làng xóm: khi thì có bộ " trống cà rung" , long trọng và đường hoàng; Buồn tẻ như chiếc "trống cơm" "trống bản" thì dùng vào việc đưa đám, khi nào phải báo hiệu hay ra lệnh thì có chiếc trống khẩn, còn như hát chèo, hát tuồng, cúng bái , thì phải dung đến mấy thứ trống một lúc cả "trống cái" "trống đế" lẫn "trống cơm"; Riêng về lối hát ả đào này: có một chiếc "trống chầu" thôi (cao khoảng 15 phân, mặt rộng 15 phân).  

      Tuy ở người cầm trống, tiếng trống có khi nghiêm chỉnh, có khi cợt nhả,  có khi vang như ng bao giờ cũng có một công dụng rõ rệt: điểm mạnh điều khiến cho ta cảm thấy rõ ràng sự hết đoạn sự hết câu.

Công dụng của tiếng trống chầu
    Biết được công dụng chiếc cột của gian nhà gỗ, hiểu được tại sao cột lại phải là một cái vừa to , vừa lớn và nhận được những cái cột phải dựng thì không có nhẽ nào lại không biết sự ích lợi của tiếng trống, vì sao tiếng trống lại phải là một thanh âm kêu và mạnh và những lúc nào phải điểm trống khi nghe âm nhạc bằng con mắt nhà kiến trúc, coi đoạn nhạc của lối hát Việt Nam này như là một gian nhà gỗ mà điệu phách là xà ngang mà tiếng trống với tiếng chát là tiếng khen.
    Đọc tới đây, chác các bạn đọc âm nhạc Âu - Tây thấy rằng tiếng trống của mình có một công dụng như những tiếng trầm (basses) trong âm nhạc Âu - Tây , chỉ khác là đằng này là một viên đá to và nặng dùng làm nền móng. Những tiếng bổng, chìm cùng một hợp âm  trong một bản nhạc Âu- Tây đã xếp đặt lên nhau đã hoà hợp vào với nhau như gạch, đá , vôi  cát của một bức tường - Âm nhạc Âu-Tây là chiếc nhà gạch, âm nhạch Đông - Phương là gian nhà gỗ.

Tiếng trống trong khúc nhạc giáo đầu
    Biết được chiếc xà dài ngắn tới đâu thì việc dùng cột cho chắc nhà không còn là khó nữa ; nên ở khúc nhạc giáo đầu này tôi đã chỉ biên những điệu phách thôi, vì công việc bào gọt chiếc cột sao cho tròn cho ngay ngắn đặt cột sao thoáng sao cân đối nghĩa là công việc nắn nót tiếng trống sao cho xinh cho tròn, điểm trống thế nào cho tài tình là thuộc về phận sự của người cầm trống.

Người cầm trống
    Là một thính giả, nên ngoài cái phận sự một nhạc công, người cầm trống còn có phận sự người biết nghe nữa: nghĩa là ngoài việc điểm cho đủ tiếng trống, có sáng kiến lựa chọn xếp đặt tiếng trống với tiếng chát có tứ biết bài nào nên rậm tiếng bài nào nên thưa tiếng, bài nào phải đứng đắn, bài nào có thể bay bướm đùa rỡn được, người cầm trống còn phải biết chữ nào, tiếng hát nào, tiếng đàn nào nên thưởng nên khen nữa.
    Có làm một nhạc công thì mới hiểu được rằng sự thông cảm của thính giả cần cho việc tấu nhạc là thế nào; cho nên thiết tưởng không còn có cách nào hoàn toàn, kín đáo, tỉ mỉ để tỏ rằng thính giả hiểu biết là giao cho thính giả một nhạc khí buộc thính giả vào một chức vụ .
Một chức vụ không dễ dãi, không vắn tắt, không a dua như việc vỗ 2 bàn tay vào nhau để khen. Một chức vụ mà phải thính tai (khen tiếng đàn tiếng hát) phải thông minh (trọn khổ trống, chấm câu văn) phải mất nhiều công phu (gọt tiếng trống) phải có bản năng (cảm thấy điệu ) phải có óc sáng tác (đặt bài hát, xếp tiếng trống) thì mới làm được trọn và lẽ tất nhiên khi đã cầm được trống hẳn có nhiều thú vị.

     Tiếng phách cuối cùng của một khúc nhạc giáo đầu này đã gieo... Đào nương bắt đầu lên tiếng hát:
"Đàn ai một tiếng dương tranh?
" Chưng thủa ngọc- ô chừng não nùng! chiều ai oán!..."

Đàn đáy

    Một cây đàn đáy, bất cứ là đã sinh ra ở một xứ nào, thuộc về một loại nhạc khí nào , bao giờ cũng có một tính cách riêng do ở hình thù và bản chất của nó.
    Như cây đàn đáy của ta đây vì thùng đàn bé (hình chữ nhật một bề 30 phân, một bề 18 phân dày 9 phân) mặt hậu không có , dây bằng tơ nên âm thanh nghe không vang và không trong có vẻ dìu dìu , đùng đục.
   Nghe tiếng đàn đáy ta có cảm giác đứng trong một cung điện âm u , hay trước một phong cảnh bị phủ dưới một làn sương mù.
   Lúc hoà nhạc thanh âm đàn đáy lại yếu, nên thường thường thấy lẫn vào với phách với giọng hát như , đã hiểu nghĩa đoàn thể, không cần ai biết tới, dù mình đã làm được việc. Chỉ thỉnh thoảng, khi trường hợp bắt buộc, mới chịu suất đầu lộ diện mà vẫn nhũn nhặn khiêm tốn.
   Nhờ những dịp đó ta mới thấy được rằng cây đàn đáy tuy chỉ có ba dây lên cánh nhau bốn bậc (accordé enquarte) chỉ có mười hai phím mà có thể nảy ra được bao nhiêu tiếng (3 octaves, ba cung tám bậc) có thể biến được sang bao âm thể.
   Đấy là những đức tính mà ta không thể tin rằng cây đàn đáy có thể có được nếu ta không biết cách " nhấn" của nhạc công Việt Nam trong lối âm nhạc này nghĩa là cái công dụng của cái cán đàn dài tới một thước hai (1m20) và cỗ phím cao chứng hai ba phân.
Khi đàn, người kép có phải chỉ "bấm" vào phím đàn không thôi đâu, ngón tay nhạc công có khi lại nhấn sâu xuống (vì phím cao) cho căng dây ra, cho tiếng lên; ví dụ: theo âm nhạc Tây , thì ở phím "do" có thể nhấn ra tiếng "do" diese "ré" hay rédiese; theo âm nhạc Tầu thì ở phím "công"có thể nhấn ra tiếng "liu" "ú" (cây đàn nguyệt cũng dùng cách nhấn này). Ngón tay nhạc công lại còn có thể nhấn cho trùng giây thấp tiếng xuống: ví dụ như ở phím "do" mà nhấn ra tiếng "si" hay si bemol ; ở phím công mà nhấn ra tiếng "xê"; một lối nhấn riêng của cây đàn đáy, vì dây, mắc dài (cán dài) có đủ sức chun lại được.
    Nhấn rồi mới gảy, đang nhấn thì gảy hay là gẩy rồi mới nhấn đấy là tất cả cái hoa tay cái bi thuận của nhạc công dùng để khiến cho một tiếng như riêng một mình nó cũng có đủ sức quyến rũ , một tiếng tầm thường trở nên một tiếng huyền ảo: một thứ tiếng mà hình như có ít nhiều tiếng rất mỏng bao phủ xung quanh.
   Một tiếng chỉ bấm không thôi mà nảy ra nó trơ trẽn bao nhiêu thì một tiếng nhấn ra nó có duyên bấy nhiêu.
   Nhấn ra tiếng đàn đã trở nên mềm ,dẻo như tiếng hát (nhất là tiếng hát Việt Nam); đã đi được đến chỗ hết sức tỉ mỉ của âm thanh và đã tả được những nỗi rất lắt léo của tâm hồn.
Lời bàn của Nicolas Obaow muốn cho thêm dây thêm phím vào cây đàn piano, có phải là để đi tới chỗ mà cây đàn đáy của ta đã đến từ bao giờ rồi không? (sau này tôi sẽ bàn tới ).

Điệu đàn đáy trong khúc nhạc giáo đầu
    Những tiếng nhấn ra thuộc về phần sáng tác của nhạc công, và một nhạc công lại có một khúc nhấn riêng nên ở khúc nhạc giáo đầu tôi đã chỉ biên ra những tiếng chính để các bạn đủ nhận thấy sự liên lạc về mạch điệu của đàn với phách; bởi vì âm thanh, đàn và phách không có mật thiết gì với nhau cả (một đằng thì có cao có thấp, một đằng chỉ một mực: rục , phách, chát thôi ).
   Tuy rằng khác mạch nhưng, điệu đàn, lẽ tất nhiên, không thể không đồng một ý nghĩa như điệu phách được.
   Ở "sòng đàn" mấy tiếng lấy đà (anacrouse) ở nhịp đầu; hai tiếng hoà với nhau nhắc đi nhắc lại ba bận ở nhịp thứ ba, tư , năm; những cung 4 bậc , 5 và 8 bậc (quarte quinte etoctave) ( thường thấy dùng trong những bản nhạc hùng dũng của nhà binh) đã khiến cho ta cảm thấy rõ ràng sự mạnh bạo, đột ngột cương quyết của sòng đàn.
   Còn như ở khổ giữa , khổ siết và lá đầu , điệu đàn đã mang lại cho ý nghĩa của những khổ phách một vẻ ảm đạm rất nhẹ nhàng mà vẫn rắn rỏi.
    Chắc các bạn có học âm nhạc Tây cũng nhận thấy rằng ở đoạn này điệu đàn đều lấy ở một hợp âm vị thành cung (accord parfait mineur).
   Một hợp âm sầu não, buồn rầu - nhưng cung (intervalle) vị thành tam cấp (tierce minere) và tiếng đứng cách âm chính không đầy ba bậc đã dùng đến rất ít (nguyên nhân sự buồn, sầu của hợp âm vị thành cung là do ở cung tam cấp và ở tiếng đứng cách tiếng chính không đấy ba bậc ) nên khúc đàn này không buồn, sầu chỉ dịu hẳn đi để làm rõ rệt thêm sự dột ngột của sòng đàn thôi .

( Thanh Nghị, số17, ngày 16-6-1942)

Tags : sinh hoạt âm nhạc thế nào sưu thuế trống cái oai nghiêm thúc giục làng xóm long trọng trống cơm khi nào báo hiệu ra lệnh thì phải ả đào