Triết học Mác ở Trung Quốc (Sự truyền bá, vận dụng, hình thái biến hóa và viễn cảnh phát triển)

Từ Tố Hoa(**)

Bài viết đã dựng lên bức tranh khái quát về sự phát triển của triết học Mác ở Trung Quốc. Trong đó, tác giả tập trung vào một số nội dung chính: 1/ Phân tích tiến trình truyền bá triết học Mác ở Trung Quốc; 2/ Phân tích sự vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc qua các giai đoạn lịch sử, chỉ ra một số thiếu sót trong quá trình đó; 3/ Luận giải sự biến đổi hình thái tồn tại của triết học Mác; 4/ Đề cập đến triển vọng phát triển của triết học Mác ở Trung Quốc trên các khía cạnh: đối với bản thân triết học Mác, quan hệ giữa triết học Mác với các trào lưu triết học khác và khả năng của  nó trong việc giải quyết các vấn đề lý luận, thực tiễn mới nảy sinh.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

I. Sự truyền bá triết học Mác ở Trung Quốc

Sự truyền bá triết học Mác ở Trung Quốc hầu như diễn ra trong suốt thế kỷ XX. Đây là một quá trình lịch sử lâu dài của “trăm sông dồn về một biển”, của tinh hoa văn hoá được truyền bá rộng khắp cho quảng đại quần chúng. Trong quá trình lịch sử này, khởi đầu của sự truyền bá, nội dung và phương thức truyền bá, phạm vi và đối tượng truyền bá đều có sự đặc sắc.

Từ khởi đầu của sự truyền bá mà xem xét, đầu thế kỷ XX, dựa vào tình hình phát triển mạnh mẽ chưa từng có của chủ nghĩa xã hội lúc đó, đồng thời phù hợp với nhu cầu khách quan của việc cải cách xã hội Trung Quốc, trước sau từ 3 hướng khác nhau là Nhật Bản, châu Âu và Liên Xô, triết học Mác được du nhập vào Trung Quốc thông qua nhiều con đường và phương thức.

Đầu tiên, việc truyền bá triết học Mác vào Trung Quốc được xuất phát từ Nhật Bản - quốc gia tư bản chủ nghĩa gần Trung Quốc nhất. Ở đó, hầu hết các trào lưu tư tưởng mới, bao gồm cả chủ nghĩa Mác, đều rất thịnh hành. Do thuận tiện về giao thông và chi phí không cao, nên Nhật Bản đã thu hút được một số lượng lớn những người trẻ tuổi có tham vọng mở rộng kiến thức đến học tập, đồng thời mở ra một con đường du nhập triết học Mác vào Trung Quốc. Những người đầu tiên chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác rồi truyền bá vào Trung Quốc là Trần Bác Hiền, Lý Đại Chiêu, Lý Đạt, Lý Hán Tuấn, Hồ Hán Dân, v.v.. Họ đều du học ở Nhật Bản và trong quá trình học tập đã tiếp thu, chịu ảnh hưởng của triết học Mác; sau đó, họ đã dịch các tác phẩm của chủ nghĩa Mác rồi giới thiệu ở Trung Quốc. Về mặt thời gian, trước năm 1927, triết học Mác được truyền vào Trung Quốc chủ yếu từ con đường Nhật Bản, sau đó, vị trí chủ đạo được chuyển cho con đường từ Liên Xô.

Thông qua việc truyền bá bằng con đường Nhật Bản, người dân Trung Quốc đã có được sự nhận thức ban đầu đối với triết học Mác, sự nhận thức ban đầu này chứa đựng dấu ấn của người Nhật Bản. Điều này trước tiên biểu hiện ở nội dung của sự truyền bá, khi đó sự nhận thức và lý giải của các học giả Nhật Bản đối với triết học Mác nghiêng về quan điểm duy vật lịch sử. Chịu ảnh hưởng bởi điều đó, ban đầu sự truyền bá triết học Mác vào Trung Quốc cũng lấy quan điểm duy vật lịch sử làm nội dung cơ bản. Tiếp theo, về mặt hình thức, người Trung Quốc dựa theo cách dịch và cách dùng của các học giả Nhật Bản đối với hầu hết các khái niệm cơ bản của triết học Mác (như chủ nghĩa duy vật, phép biện chứng) và dùng chúng cho đến ngày nay. Có thể nói, người Nhật là “người thầy khai sáng triết học Mác” của người Trung Quốc.

Sự truyền bá triết học Mác từ châu Âu là do một nhóm thanh niên Trung Quốc tiến bộ (như Chu Ân Lai, Thái Hoà Sâm, v.v.) tiếp thu rồi truyền bá về. Thông qua học tập và tiếp thu kinh nghiệm thực tế ở các nước châu Âu, như Pháp, Đức, v.v., nhóm này không chỉ hiểu rõ hình thái ban đầu của triết học Mác, mà còn nắm rất rõ bối cảnh văn hoá, xã hội, v.v. dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Họ thông qua thư từ, bài viết, v.v. để trình bày sự hiểu biết của mình rồi giới thiệu về trong nước. Sau khi về nước, họ tiếp tục là đội ngũ chủ lực giới thiệu, truyền bá triết học Mác ở châu Âu cho đông đảo nhân dân.

Sự du nhập triết học Mác từ Liên Xô chủ yếu là thông qua hình thức tài liệu, giáo trình, sách giáo khoa. Hình thức này có ưu điểm là có tính hệ thống, tính chính thống; do đó, tuy xuất hiện sau nhưng đã chiếm thế thượng phong và giữ địa vị “chính thống” ở Trung Quốc suốt gần 50 năm. Đến những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình này mới bắt đầu có sự biến đổi.

Tổng quan ngọn nguồn du nhập triết học Mác vào Trung Quốc, có thể nhận thấy khi đó triết học Mác đã hoà quyện với phong trào cách mạng đang nở rộ trên toàn thế giới như thế nào. Triết học Mác từ ba hướng khác nhau, hợp thành một dòng chảy đổ về Trung Quốc, tạo nên một trào lưu mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu rộng, với khí thế hừng hực - điều hiếm thấy trong lịch sử triết học Trung Quốc. Đây chính là đặc trưng trong giai đoạn đầu tiên của triết học Mác ở Trung Quốc. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải thừa nhận rằng, xuất phát điểm của sự phát triển triết học Mác ở Trung Quốc là không cao, chủ yếu lấy “đồ cũ” (nghĩa là thông qua sự nhận thức, lý giải và phát triển của người khác) để làm xuất phát điểm, không tiếp xúc nhiều và chưa nghiên cứu sâu đối với hình thái ban đầu của triết học Mác (các nguyên tác của C.Mác và Ph.Ăngghen). Đây có thể coi là một thiếu sót của sự phát triển triết học Mác ở Trung Quốc.

Sự truyền bá triết học Mác ở Trung Quốc chủ yếu trải qua các hình thức và giai đoạn sau: một là,từ sự giới thiệu thông qua dịch tài liệu đến sự giới thiệu mang tính truyền đạt (như giảng dạy, tập huấn, v.v.); hai là, từ sự giới thiệu mang tính truyền đạt đến sự giới thiệu mang tính đại chúng; ba là, từ sự giới thiệu mang tính đại chúng đến sự giới thiệu mang đặc trưng Trung Quốc. Đây là một quá trình chuyển dần từ bị động sang chủ động, chuyển từ dựa vào người khác đến tự mình chủ động sáng tạo.

Sự giới thiệu thông qua việc dịch các tài liệu là bước khởi đầu của việc truyền bá triết học Mác vào Trung Quốc. Một dân tộc muốn tiếp thu văn hoá tư tưởng của một dân tộc khác, trước hết phải xuất phát từ việc hiểu rõ nội dung cơ bản của nó, có nghĩa là tất yếu phải thông qua dịch thuật. Giới thiệu thông qua dịch thuật luôn là bước đầu tiên. Sự truyền bá triết học Mác vào Trung Quốc cũng khởi đầu bằng việc dịch thuật, bao gồm dịch các nguyên tác của triết học Mác (từ việc trích dịch đến dịch toàn bộ các tác phẩm) và dịch các tác phẩm, bài viết, v.v. của các học giả nước ngoài (từ các bài viết riêng lẻ đến giáo trình mang tính hệ thống).

Từ sự giới thiệu mang tính dịch thuật đến sự giới thiệu mang tính truyền đạt là hình thức chuyển biến đầu tiên của sự truyền bá triết học Mác ở Trung Quốc. Điều đó thể hiện người Trung Quốc bắt đầu chú ý đến việc khắc phục tính hạn chế của việc chuyển dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, đồng thời thử nghiệm thói quen biểu đạt bằng ngôn ngữ của mình để truyền đạt lại sự nhận thức và lý giải của các học giả nước ngoài đối với triết học Mác (ví dụ, các tác phẩm của Lý Đại Chiêu, Lý Đạt trong những năm 20 của thế kỷ XX). So với sự giới thiệu mang tính dịch thuật, thì sự giới thiệu mang tính truyền đạt là một bước tiến của hình thức truyền bá triết học Mác ở Trung Quốc.

Từ sự giới thiệu mang tính truyền đạt đến sự giới thiệu mang tính đại chúng là sự thay đổi hình thức truyền bá lần thứ hai (như “Triết học đại chúng” của Ngãi Tư Kỳ trong thập niên 30 của thế kỷ XX). Điều này phản ánh việc truyền bá triết học Mác ở Trung Quốc đã tiến thêm một bước gắn liền với đời sống xã hội của người dân Trung Quốc, đồng thời cũng biểu hiện việc truyền bá triết học Mác ở Trung Quốc bắt đầu có tính chủ động và sáng tạo, các học giả nước ngoài đã không còn địa vị độc tôn như trước đây.

Từ sự giới thiệu mang tính đại chúng đến sự giới thiệu mang tính “Trung Quốc hoá” là sự thay đổi hình thức truyền bá triết học Mác vào Trung Quốc lần thứ 3. Hai tác phẩm của Mao Trạch Đông: Bàn về thực tiễn và Bàn về mâu thuẫn có thể coi là tiêu biểu cho quá trình Trung Quốc hoá sự truyền bá triết học Mác ở Trung Quốc. Lúc này, nội dung của triết học Mác đã gắn chặt với công cuộc tổng kết kinh nghiệm cách mạng cũng như dung hoà với tinh hoa văn hoá truyền thống Trung Quốc. Kết cấu và biểu đạt của triết học Mác cũng trở nên gần gũi với người Trung Quốc hơn; đồng thời, trong quá trình truyền bá triết học Mác ở Trung Quốc, người Trung Quốc cũng đã có những cống hiến riêng của mình.

Việc truyền bá triết học Mác vào Trung Quốc trải qua 3 lần thay đổi hình thức đã thể hiện tính thống nhất cao độ của sự phát triển lịch sử, sự phát triển nhận thức con người và sự phát triển lôgíc lý luận; nó phù hợp với quy luật chung của sự phát triển, dung hoà và giao lưu văn hoá tư tưởng giữa các dân tộc khác nhau.

Việc truyền bá triết học Mác ở Trung Quốc được thực hiện bởi hai nhóm người, đó là những người làm cách mạng và những người làm công tác triết học. Trước năm 1927, sự phân biệt này không rõ ràng. Nhóm người đầu tiên tiếp thu triết học Mác, như Trần Độc Tú, Lý Đại Chiêu, v.v. vừa là những người có khả năng sáng tạo lý luận, vừa là những người lãnh đạo của các phong trào cách mạng. Sau năm 1927, do có sự thay đổi nhiệm vụ và tình thế cách mạng Trung Quốc, bắt đầu xuất hiện các nhóm người truyền bá khác nhau: một nhóm là những trí thức làm công tác triết học, một nhóm là những người trực tiếp lãnh đạo các phong trào cách mạng. Bản thân họ có nhiều điểm khác nhau: quan điểm khác nhau, đối tượng và phạm vi truyền bá khác nhau, nội dung và phương thức truyền bá cũng muôn hình muôn vẻ.

Nhóm những phần tử trí thức làm công tác triết học chủ yếu hoạt động ở Thượng Hải, Bắc Bình (Bắc Kinh), vốn là khu vực thống trị của Quốc dân Đảng. Những người này dựa vào các điều kiện văn hoá - xã hội thuận lợi ở thành phố và sự nhận thức của bản thân cũng như các phương thức quen thuộc (như dịch thuật, nghiên cứu lý luận, trước tác lý luận, giảng dạy, v.v.) để tiến hành truyền bá. Đối tượng truyền bá của họ là học sinh, sinh viên, nhân viên và công nhân ở thành phố; mục đích là mở rộng ảnh hưởng của triết học Mác, thu hút ngày càng nhiều người tham gia cách mạng. Thông qua nỗ lực của một nhóm người làm công tác triết học ưu tú, như Lý Đạt, Ngãi Tư Kỳ, Trần Duy Thực, Thẩm Chí Viễn, Hồ Thằng, v.v. triết học Mác từ chỗ không có địa vị gì đã trở thành một học thuyết có sức ảnh hưởng lớn nhất ở Trung Quốc.

Nhóm thứ hai bao gồm những người tham gia lãnh đạo các phong trào cách mạng, tiêu biểu là Mao Trạch Đông. Nhóm này hoạt động chủ yếu ở những vùng căn cứ địa cách mạng rộng lớn. Phương thức truyền bá của họ trước hết là áp dụng phương pháp, lập trường, quan điểm, v.v. của triết học Mác để phân tích tình hình và nhiệm vụ cách mạng, lựa chọn con đường cách mạng phù hợp với thực tế cách mạng Trung Quốc, vạch ra chiến lược cũng như đường lối, phương châm, chính sách của cách mạng; bước tiếp theo là phương pháp hoá triết học Mác, nhằm cung cấp cho các cấp cán bộ và đội ngũ lãnh đạo quân đội ở những vùng căn cứ địa cách mạng các phương pháp tư tưởng để có thể áp dụng trong thực tế tác chiến. Sự nỗ lực của nhóm này đã giúp cho việc truyền bá triết học Mác ở Trung Quốc vượt ra khỏi phạm vi hạn hẹp của lý luận học thuật, giúp triết học Mác thâm nhập một cách sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và cách mạng xã hội, phát huy những chức năng xã hội của triết học Mác.

 Sự truyền bá triết học Mác ở Trung Quốc vốn có đặc trưng riêng và có thể đúc rút ra những bài học kinh nghiệm.

Ban đầu, sự truyền bá triết học Mác ở Trung Quốc lấy quan điểm duy vật lịch sử làm xuất phát điểm, dần dần tiến đến phát triển phép biện chứng duy vật, cuối cùng dựa vào các giáo trình triết học của Liên Xô những năm 30 của thế kỷ XX để thực hiện sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Có thể coi việc lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm nội dung và khuôn mẫu cơ bản là một sự đóng góp của Trung Quốc trong quá trình truyền bá triết học Mác. Tuy nhiên, việc tôn sùng triết học Mác là chính thống, tuyệt đối hoá và thậm chí, thần thánh hoá nó trong một thời gian dài đã cản trở sức sống của triết học Mác, làm cho tư duy con người trở nên cứng nhắc, cố định. Bài học kinh nghiệm của vấn đề này đã được đúc rút một cách toàn diện và hệ thống sau Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XI. Từ đó, triết học Mác bắt đầu thoát khỏi sự trói buộc của các mô thức truyền thống và bước vào một giai đoạn phát triển mới.

Tiếp theo, khi triết học Mác được du nhập vào Trung Quốc, nó chỉ là một trong vô số các trào lưu tư tưởng mới của thời kỳ “Ngũ Tứ”. Nhờ có tính thực tiễn và tính giai cấp rất rõ ràng, nên ngay từ lúc mới được du nhập, triết học Mác đã gắn bó chặt chẽ với việc giải quyết những vấn đề bức thiết nhất trong sự phát triển xã hội của Trung Quốc. Đồng thời, nó cũng lấy việc phù hợp và đáp ứng nhu cầu phát triển thực tế cách mạng của giai cấp vô sản làm mục tiêu và tôn chỉ, điều này là vô cùng có lợi cho sự phát triển của cách mạng Trung Quốc. Nhưng, sự vật bao giờ cũng có tính hai mặt. Triết học Mác ngay từ khi mới du nhập vào Trung Quốc đã kết hợp chặt chẽ với thực tiễn cách mạng, nhanh chóng được ứng dụng trong thực tế. Điều này đã làm cho quá trình thâm nhập của triết học Mác vào Trung Quốc thiếu một giai đoạn chuẩn bị rất quan trọng là giai đoạn nghiên cứu và tuyên truyền lý luận, làm cho việc truyền bá thiếu cơ sở vững chắc và người truyền bá không được chuẩn bị đầy đủ về mặt lý luận; do đó, khó tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển về sau của lý luận và thực tiễn.

Thứ ba, việc căn cứ vào nhu cầu thực tế của sự phát triển xã hội Trung Quốc để truyền bá triết học Mác có tính lịch sử hợp lý của nó. Nhưng, trong các hành động cụ thể thì “nhu cầu thực tế” thường dễ bị giải thích lệch lạc và tự ý thay đổi. Vấn đề giải thích lệch lạc mà thông thường là căn cứ vào nhu cầu hiện thực để nhấn mạnh hoặc nêu bật một số nội dung này mà bỏ qua các nội dung khác, đã làm tách biệt mối liên hệ nội tại giữa các bộ phận của triết học, phá vỡ tính chỉnh thể của lý luận. Ví dụ như việc lấy chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở cho lý luận đấu tranh giai cấp và học thuyết cách mạng xã hội, do nhu cầu thực tế của công cuộc cách mạng xã hội Trung Quốc đã được nhấn mạnh và đặt lên vị trí hàng đầu; còn học thuyết về con người trong triết học Mác, đặc biệt là học thuyết về sự phát triển tự do, toàn diện con người thì bị lãng quên trong một thời gian dài. Vấn đề tự ý thay đổi biểu hiện chủ yếu ở việc biến nhu cầu khách quan của sự phát triển xã hội thành nhu cầu chủ quan của con người. Xuất phát từ nhu cầu chủ quan của cá nhân hoặc sự tốt xấu của cá nhân để “gọt đẽo” triết học Mác, coi đó là “triết học chiến đấu” - một tên gọi khác của triết học Mác, hoặc quan điểm “sùng bái cá nhân” trong lý luận về vai trò của anh hùng trong lịch sử cũng được cho là những quan điểm cần phải khẳng định.

II. Việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc

Việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc, một mặt, là quá trình lịch sử phù hợp với nhu cầu vận động, phát triển của cách mạng Trung Quốc mà không ngừng biến đổi trọng điểm tác dụng của nó; mặt khác, là sự mở rộng không ngừng việc vận dụng, do cuộc đấu tranh giữa các giai tầng trong xã hội luôn đòi hỏi công tác lý luận phải đi sâu nghiên cứu, mở rộng ảnh hưởng và phạm vi tác động của nó. V.I.Lênin từng nói: trong lý luận, việc tập trung chú ý vào phương diện nào không phải được quyết định bởi ý muốn chủ quan, mà được quyết định bởi điều kiện lịch sử(1).  Căn cứ vào điều kiện lịch sử, việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc về đại thể được phân thành thời kỳ tìm hiểu, thời kỳ chín muồi, thời kỳ khủng khoảng và thời kỳ phồn vinh trở lại.

Từ phong trào “Ngũ Tứ” đến năm 1927 là thời kỳ tìm hiểu. Trong thời kỳ này, chủ nghĩa duy vật lịch sử là trọng tâm của việc vận dụng triết học Mác, nghĩa là vận dụng quan điểm duy vật lịch sử để lý giải nguồn gốc xã hội của cách mạng Trung Quốc, luận chứng tính tất yếu của việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản, xác định phương hướng, đường lối chiến lược, đối tượng cách mạng, quyền lãnh đạo cách mạng của cách mạng Trung Quốc, v.v.. Xét về tổng thể, việc vận dụng triết học Mác trong giai đoạn này mang tính bước đầu, mang tính tìm hiểu mà thôi.

Từ năm 1927 đến năm 1949 là thời kỳ mà việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc được triển khai từng bước và tiến tới chín muồi. Sau năm 1927, nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới cũng như sự phát triển của cách mạng trong giai đoạn mới, trọng tâm của việc vận dụng triết học Mác chuyển từ chủ nghĩa duy vật lịch sử sang lý luận nhận thức và phép biện chứng. Sự thay đổi trọng tâm của sự vận dụng là đòi hỏi về mặt lý luận đối với sự phát triển cao hơn của cách mạng Trung Quốc, là dấu hiệu của việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc đã đạt đến giai đoạn chín muồi. Ph.Ăngghen đã từng nói: “Quan điểm duy vật lịch sử và tác dụng đặc biệt của nó trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản hiện nay chỉ có dựa vào phép biện chứng mới có thể thực hiện được”(2). Cùng với sự phát triển ngày càng cao của cách mạng Trung Quốc, các nhà mácxít trên nhiều lĩnh vực khác nhau ngày càng lý giải một cách sâu sắc hơn các luận điểm của C.Mác, đồng thời họ đều dựa vào cách thức riêng của mình để tạo ra những nỗ lực thực tế. Trong tác phẩm Phương pháp luận tư tưởng, Ngãi Tư Kỳ cho rằng, từ các phạm trù, khái niệm, nguyên lý trừu tượng của phép biện chứng, lý luận nhận thức mácxít phải làm thế nào để có thể xây dựng các phương pháp công tác, phương pháp tư tưởng nhằm vận dụng vào thực tế công tác cách mạng, tiến hành đi sâu tìm hiểu và đưa ra kiến giải sâu sắc của mình. Trong việc vận dụng một cách cụ thể phép biện chứng và lý luận nhận thức của triết học Mác vào thực tiễn cách mạng, Mao Trạch Đông đã có những cống hiến quan trọng. Cống hiến tiêu biểu nhất của ông là đưa ra một hệ thống các phương pháp công tác và phương pháp tư tưởng phù hợp với đặc điểm và phong cách của người cộng sản Trung Quốc, bao gồm các phương pháp và nguyên tắc phương pháp luận cơ bản nhất, cũng như các phương pháp tư tưởng và phương pháp công tác cụ thể. Đây là nội dung tiêu biểu, mang đậm màu sắc Trung Quốc nhất trong tư tưởng triết học của Mao Trạch Đông, cũng là sự phát triển và làm phong phú thêm triết học Mác.

Ba mươi năm sau khi Trung Quốc được thành lập là thời kỳ khủng hoảng trong việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc. Việc vận dụng triết học Mác từng đạt được những thành tựu ban đầu trong việc tìm tòi con đường xây dựng và cải tạo chủ nghĩa xã hội, nhưng đồng thời nó cũng trải qua một khúc quanh, chủ yếu biểu hiện ở chỗ ngày càng xa rời thực tế cụ thể của Trung Quốc, ngày càng trở nên chủ quan tuỳ tiện. Đặc biệt, trong giai đoạn “Cách mạng văn hoá”, việc vận dụng triết học Mác đã sa vào chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa giáo điều.

Hai mươi năm cuối của thế kỷ XX, là thời kỳ việc nghiên cứu và vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc bước vào một quỹ đạo phát triển mới, bắt đầu từ cuối những năm 70, khi cả nước bị cuốn hút vào cuộc đại thảo luận về tiêu chuẩn của chân lý. Cuộc đại thảo luận này đã giúp cho việc nghiên cứu vận dụng triết học Mác quay trở lại với quỹ đạo đúng đắn của nó, nhưng ở một tầm cao hơn. Đặng Tiểu Bình đã nêu một tấm gương sáng trước toàn Đảng về phương diện này. Ở bất cứ đâu, ông cũng đều nhấn mạnh: phải xuất phát từ thực tiễn, giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị, thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý; đồng thời, vận dụng những nguyên tắc và tinh thần cơ bản này để mạnh dạn đoạn tuyệt với quá khứ, tìm tòi sự sáng tạo cho tương lai. Chính từ quá trình nghiên cứu tìm tòi trong thực tiễn, lý luận chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc đã định hình. Đây có thể coi là thành tựu to lớn nhất của việc nghiên cứu, vận dụng linh hoạt và sáng tạo triết học Mác trong điều kiện lịch sử mới. Dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình, việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc không còn giống như trước đây, nghĩa là chỉ bó hẹp trong việc luận chứng cho các chính sách cụ thể và đường lối chính trị hiện hành, mà giờ đây nó phải phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới, phải nêu bật và nhấn mạnh chức năng phê phán và phản tư của triết học, đặt nền tảng của việc vận dụng triết học vào một vị trí mới, đó là ở sự chỉ đạo phương pháp tư duy, nhấn mạnh việc vận dụng thực tế của triết học trong cuộc sống hiện thực, đưa ra phương pháp chỉ đạo, giúp mọi người nhận thức và giải quyết ngày càng tốt hơn các vấn đề của thực tiễn cuộc sống. Đồng thời, các phương pháp và phương thức vận dụng cần phải chú trọng tới tính khoa học, cần phải tăng cường chú ý tôn trọng đặc điểm và quy luật của bản thân triết học. Tất cả những điều này đã nói lên rằng, qua 20 năm cải cách mở cửa, trình độ vận dụng chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc (bao gồm giới lãnh đạo và giới học thuật) đều đã có sự phát triển mới, bước sang một trang sử mới.

Việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc còn là một quá trình lịch sử không ngừng mở rộng lĩnh vực vận dụng, do sự đòi hỏi của cuộc đấu tranh chính trị giữa các giai tầng xã hội đối với việc nghiên cứu lý luận nhằm đi sâu, mở rộng và phát huy tác dụng của nó. Việc vận dụng triết học Mác trong lĩnh vực đấu tranh chính trị xã hội đã làm thay đổi một cách triệt để diện mạo của Trung Quốc, thúc đẩy xã hội phát triển. Điều này đã được ghi vào sử sách và được đông đảo các nhà nghiên cứu quan tâm chú ý. So sánh điều này với ảnh hưởng và tác dụng của triết học Mác trong lĩnh vực nghiên cứu học thuật, thì đó là một khâu yếu kém trong việc nghiên cứu lịch sử vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc. Trên thực tế, sau khi triết học Mác du nhập vào Trung Quốc, nó không chỉ giúp Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhân dân Trung Quốc tiến hành một cuộc đại cách mạng xã hội triệt để, mà còn tạo nên một cuộc cách mạng trong lĩnh vực nghiên cứu học thuật, thúc đẩy công tác nghiên cứu học thuật của Trung Quốc từ bảo thủ hướng đến đổi mới, từ truyền thống hướng đến hiện đại.

Nghiên cứu lịch sử là lĩnh vực học thuật gắn bó sớm nhất với việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc. Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Lý Đại Chiêu cho ra đời ba cuốn sách nổi tiếng: Bài giảng về quan điểm duy vật lịch sử, Bài giảng về lịch sử tư tưởng sử học, Sử học yếu luận được giới sử học xem là cột mốc của việc vận dụng chủ nghĩa Mác làm kim chỉ nam cho công tác nghiên cứu sử học. Tiếp theo Lý Đại Chiêu, một nhóm các nhà sử học mới, như Quách Mạt Nhược, Lã Trấn Vũ, Phạm Văn Lan, Hầu Ngoại Lư, Tiển Bá Tán, v.v. trong thập niên 30 - 40 đã cho ra đời hàng loạt các tác phẩm kiệt xuất: Quách Mạt Nhược có Nghiên cứu xã hội cổ đại Trung Quốc, Lã Trấn Vũ có Nghiên cứu xã hội Trung Quốc trước đây, Phạm Văn Lan có Trung Quốc thông sử giản biên, Hầu Ngoại Lư có Trung Quốc tư tưởng thông sử, Tiển Bá Tán có Trung Quốc sử cương, v.v.. Điều đó đã làm cho công tác nghiên cứu sử học ở Trung Quốc bước vào một giai đoạn hoàn toàn mới, đồng thời cũng tạo nên sử học mới của chủ nghĩa Mác. Ngoại trừ 5 nhà sử học tiêu biểu có ảnh hưởng nhất đối với việc nghiên cứu sử học mới về chủ nghĩa Mác ở trên, cần phải nhắc đến Ngô Thừa Sỹ, người rất nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu quốc học ở miền bắc Trung Quốc. Ông là học trò lớn nhất của Chương Thái Viêm, một nhà kinh học nổi tiếng, từng giảng dạy ở nhiều trường đại học, từng là chủ nhiệm khoa Quốc học của trường Đại học Bắc Bình Trung Quốc. Trước ảnh hưởng của việc truyền bá rộng rãi triết học Mác, ông đã tiếp thu thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác, đồng thời vận dụng vào thực tiễn giảng dạy và nghiên cứu quốc học, mở ra một vấn đề mới đối với lĩnh vực nghiên cứu quốc học truyền thống và được thế hệ sau tôn vinh là “người đặt nền móng cho việc vận dụng phương pháp biện chứng và quan điểm duy vật lịch sử vào nghiên cứu Kinh học Trung Quốc cũng như vào lĩnh vực Văn tự học”. Sau khi Trung Quốc được thành lập, triết học Mác, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật lịch sử chiếm ưu thế tuyệt đối và địa vị chủ đạo trong nghiên cứu lịch sử, do đó đã mở ra một cục diện mới trong nghiên cứu sử học. Nhờ vậy, rất nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử đã được đánh giá một cách khách quan, công bằng; một số vấn đề bị bóp méo hoặc hiểu sai đã được khôi phục lại diện mạo ban đầu. Trong khi đạt được những thành tích quan trọng, cũng cần phải chú ý một điều là, việc vận dụng triết học Mác vào lĩnh vực nghiên cứu sử học ở Trung Quốc trong giai đoạn mới không thể tách rời điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội mà nó đề cập đến. Đây là thời kỳ mà do sai lầm lý luận của những người lãnh đạo chủ chốt cũng như vấn đề “tả khuynh” trong chỉ đạo tư tưởng của Đảng, đã mang lại cho sự vận dụng triết học Mác trong nghiên cứu sử học không biết bao nhiêu rắc rối, thậm chí là sự phá hoại nghiêm trọng. Nghiên cứu sử học bỗng chốc biến thành công cụ đấu tranh chính trị, cái gọi là “sử học ám chỉ” là một điển hình trong “Văn cách” (cách mạng văn hoá). Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, cùng với tinh thần thực sự cầu thị của Đảng, việc vận dụng triết học Mác trong lĩnh vực nghiên cứu sử học cũng được đặt trên một đường ray mới.

Nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc cũng là một lĩnh vực học thuật rất quan trọng trong quá trình vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc. Những người đầu tiên tiến hành công việc này không hoàn toàn là những nhà mácxít, như Hồ Hán Dân, Phạm Thọ Khang. Hồ Hán Dân là một nguyên lão của Quốc dân Đảng, ông vận dụng quan điểm duy vật lịch sử để nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc, xem quan điểm duy vật lịch sử như là công cụ và phương pháp nghiên cứu khoa học có giá trị cao. Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, ông cho ra đời tác phẩm Nghiên cứu duy vật đối với lịch sử triết học Trung Quốc và cuốn Từ cơ sở kinh tế xem xét chế độ gia tộc, v.v.. Hồ Hán Dân được đánh giá là người “mở con đường mới cho việc nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc”, “khơi dòng cho việc vận dụng quan điểm duy vật lịch sử vào nghiên cứu lịch sử tư tưởng văn hoá Trung Quốc”. Còn Phạm Thọ Khang, vào giữa những năm 30 của thế kỷ XX, đã cho ra đời tác phẩm Lịch sử triết học Trung Quốc thông luận, là cuốn sách lịch sử triết học Trung Quốc đầu tiên vận dụng phương pháp mới, quan điểm mới của triết học Mác. Trong số những người vận dụng quan điểm triết học Mác vào nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc thì đại đa số là những người mácxít. Những nhà mácxít là lực lượng chủ lực, trong đó Đỗ Quốc Tường và Kê Văn Phủ là những đại biểu tiêu biểu nhất. Đỗ Quốc Tường là một nhà nghiên cứu lâu năm trong việc vận dụng quan điểm duy vật lịch sử vào nghiên cứu triết học thời Tiên Tần. Hai tác phẩm của ông là Khái quát tư tưởng chư tử thời Tiên Tần và Một số nghiên cứu về chư tử Tiên Tần được đánh giá là hai tác phẩm điển hình trong việc vận dụng quan điểm duy vật lịch sử và phương pháp biện chứng duy vật để nghiên cứu tư tưởng cổ đại Trung Quốc, cho đến mãi sau này vẫn được giới học thuật đánh giá cao. Kê Văn Phủ thì viết được 90 vạn chữ về nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học Trung Quốc, nó phản ánh khả năng vận dụng một cách linh hoạt và những kiến giải sáng tạo của ông trong việc áp dụng quan điểm duy vật lịch sử vào nghiên cứu lịch sử triết học. Sau khi Trung Quốc được thành lập, việc vận dụng triết học Mác vào nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc bước vào một giai đoạn phát triển mới. Trước giai đoạn này 30 năm, đặc điểm của sự vận dụng là người vận dụng và phạm vi vận dụng không ngừng mở rộng. Dưới sự ảnh hưởng của các quan điểm mới, phương pháp mới, đã có hàng loạt các tác phẩm liên tiếp ra đời, như cuốn Trung Quốc triết học sử tân biên của Phùng Hữu Lan, Trung Quốc triết học sử của Nhiệm Kế Dũ. Hạn chế của thời kỳ này là sự dập khuôn máy móc của chủ nghĩa giáo điều, là sự đơn giản hoá, chưa chú trọng và nghiên cứu đầy đủ đặc điểm của triết học Trung Quốc cũng như quy luật đặc thù của sự phát triển lịch sử triết học Trung Quốc. Ngoài ra, do sự tham dự, chi phối của chính trị đối với nghiên cứu học thuật, việc nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc bỗng chốc trở thành một bộ phận của đấu tranh chính trị. Đặc điểm của sự vận dụng triết học Mác 20 năm sau giai đoạn trên là ở chỗ, trên cơ sở khôi phục trạng thái bình thường, sự vận dụng ngày càng mang tính lý tính, ngày càng có tính khoa học hợp lý; đồng thời với việc nhấn mạnh phải kiên trì lập trường, quan điểm, phương pháp chỉ đạo của chủ nghĩa Mác trong nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc, cũng cần tôn trọng và chú ý đến hình thái biểu hiện đặc thù và quy luật đặc thù trong sự phát triển lịch sử triết học Trung Quốc; đồng thời với việc nhấn mạnh phải kiên trì phương pháp và nguyên tắc cơ bản của triết học Mác trong nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc, cũng cần phải tham khảo, học tập những phương pháp mới, quan điểm mới. Điều này đã thúc đẩy việc nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc bước vào một thời kỳ mới phong phú và đa dạng hơn trước.

Việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc còn gắn liền với rất nhiều lĩnh vực nghiên học thuật khác, như chính trị học, kinh tế học, văn học, xã hội học, pháp luật học, v.v.. Tuy ảnh hưởng và sự vận dụng triết học Mác trong các lĩnh vực kể trên không lớn như trong lĩnh vực nghiên cứu sử học và lịch sử triết học, nhưng dấu ấn của nó cũng rất rõ. Do khuôn khổ bài viết có hạn, ở đây chúng tôi không thể trình bày một cách chi tiết.

Việc khái quát quá trình vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc như đã trình bày ở trên đã thể hiện tính sâu sắc và tính bao quát của nó, đồng thời cũng biểu hiện kết quả của nó trong nghiên cứu học thuật và lĩnh vực cách mạng xã hội. Thành tựu thì tất cả mọi người đã thấy, còn những sai lầm và bài học kinh nghiệm cũng cần phải được tổng kết và đúc rút. Ví dụ:

Về mối quan hệ giữa triết học và chính trị. Triết học vận dụng vào chính trị, nghĩa là chỉ đạo trong đấu tranh chính trị, đây vốn là phương diện quan trọng nhất, nổi bật nhất của việc vận dụng triết học Mác. Triết học Mác không thể lẩn tránh hoặc thoát ly khỏi chính trị, điều này là do bản chất của triết học Mác quy định. Triết học phục vụ cho cuộc đấu tranh chính trị, đó là chức năng xã hội đầu tiên của triết học, nhưng không phải là chức năng duy nhất, càng không phải là chức năng cuối cùng. Sai lầm của Trung Quốc trước đây trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác là ở chỗ, Trung Quốc đã duy nhất hoá, tuyệt đối hoá chức năng trên, đồng thời coi sự “phục vụ” của triết học chỉ đơn giản là “luận chứng”, hơn nữa chỉ có thể luận chứng cho tính “hợp lý”, “đúng đắn” của các chủ trương, đường lối, chính sách, v.v.. Kết quả là làm cho triết học mất đi tính độc lập, tính khoa học và chìm đắm trong vai trò nô lệ của chính trị, đánh mất đi thanh danh của triết học. Đây là sai lầm lớn nhất của việc vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc.

Về tính chủ quan, tuỳ tiện trong việc vận dụng triết học Mác. Căn cứ vào nguyên tắc luận duy vật của triết học Mác, việc vận dụng các nguyên lý cơ bản của triết học Mác nhất định phải xuất phát từ thực tiễn (nhất định phải lấy thực tiễn làm điểm xuất phát), phải xem xét một cách đầy đủ sự thay đổi về địa điểm, thời gian, đối tượng của sự vận dụng. Trước đây, chúng ta đã sai lầm khi không chú ý đến sự thay đổi này. Ví dụ, trong việc vận dụng học thuyết “đấu tranh giai cấp”, chúng ta đã hoàn toàn bỏ qua sự thay đổi của đối tượng, thời gian, địa điểm và thực tế khách quan của xã hội Trung Quốc, nên dẫn đến việc sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền và thành lập chế độ xã hội chủ nghĩa, vẫn cứ kiên trì “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh”, vẫn tiếp tục phát động “cuộc đại cách mạng của giai cấp này lật đổ giai cấp khác”. Căn cứ vào yêu cầu cơ bản của phương pháp biện chứng của triết học Mác, người vận dụng nhất định phải nắm chắc và hiểu một cách toàn diện lý luận được đem ra vận dụng là thế nào, đồng thời cũng phải xem xét một cách đầy đủ lôgíc nội tại giữa các quan điểm lý luận. Thế nhưng, khi vận dụng trong thực tế, người vận dụng có thể vi phạm những yêu cầu cơ bản này, dựa vào nhu cầu chủ quan hoặc mục đích tốt xấu khác nhau để tự ý tuỳ tiện lược bỏ, cắt xén triết học Mác. Nếu như trong triết học Mác, việc phát huy tính năng động chủ quan của con người đòi hỏi phải lấy việc nắm chắc và nhận thức đầy đủ quy luật khách quan làm tiền đề, thì trái lại, khi vận dụng, trong những trường hợp cụ thể, người vận dụng lại thường chỉ căn cứ vào nhu cầu chủ quan, chỉ chú trọng phát huy nhân tố chủ quan mà hoàn toàn quên mất việc phải nắm bắt, nhận thức đầy đủ và tôn trọng quy luật khách quan.

Về việc tầm thường hoá, đơn giản hoá phương thức và đường lối trong vận dụng triết học Mác.Do tính chất đặc thù của bản thân triết học, nên sự vận dụng triết học không giống như sự vận dụng các khoa học khác, vì chưa thể nhìn thấy ngay được kết quả. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, vận dụng triết học là một quá trình phức tạp, các quy luật, phạm trù, khái niệm trừu tượng của triết học cần phải thông qua một quá trình trung gian, thông qua chuyển hoá mới có thể chỉ đạo hành động, mới có thể biến thành hành động cụ thể. Nếu như trực tiếp áp dụng một cách máy móc, bê nguyên xi các khái niệm, phạm trù triết học thì sẽ mắc phải sai lầm, dẫn tới chỗ làm tầm thường hoá, đơn giản hoá triết học. Sai lầm trước đây của Trung Quốc là ở chỗ, đã đơn giản hoá quá trình phức tạp của việc vận dụng triết học, không chú ý đến việc đòi hỏi những người vận dụng triết học cần phải có sự chuẩn bị về những tri thức triết học cũng như có khả năng vận dụng triết học trong thực tế cuộc sống.

III. Sự biến đổi hình thái tồn tại của triết học Mác

Thực tiễn phát triển văn hoá tư tưởng của nhân loại đã chỉ ra rằng, bất kỳ một học thuyết tư tưởng nào cũng đều là sản phẩm của một giai đoạn lịch sử nhất định, nó luôn phát triển cùng với sự phát triển của nhận thức của con người và lịch sử xã hội. Học thuyết nào mà “nhất thành bất biến” thì sẽ không thể có sức sống, sẽ không thể tiếp tục được duy trì đến các thế hệ sau. Sự biến đổi hình thái của các học thuyết lý luận, về căn bản, xuất phát từ đòi hỏi khách quan của thực tiễn lịch sử, đồng thời xuất phát từ sự chi phối của nhân tố chủ quan đối với quá trình cải tạo và chỉ đạo thực tiễn. 

Học thuyết Nho giáo, từ khi ra đời cho đến hôm nay, đã trải qua một quá trình biến đổi với nhiều hình thái khác nhau, như kinh học, lý học, tâm học, thực học và tân nho giáo, v.v.. Triết học Mác sau khi ra đời trên 100 năm, hình thái của nó cũng luôn trong quá trình biến đổi, phát triển. Từ hình thức ban đầu là “chủ nghĩa duy vật thực tiễn” đến thời kỳ Lênin trở thành “chủ nghĩa duy vật chiến đấu”, tiếp đến là hình thức mà trong sách giáo khoa của Liên Xô gọi là “chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử”. Sau khi triết học Mác du nhập vào Trung Quốc, trong quá trình kết hợp với thực tiễn cách mạng Trung Quốc và văn hoá tư tưởng truyền thống Trung Quốc, thì vấn đề phát triển, biến đổi hình thái của nó cũng được mọi người quan tâm chú ý, trong đó có Trung Quốc hoá triết học Mác – tư tưởng triết học của Mao Trạch Đông; đại chúng hoá triết học Mác – Triết học đại chúng của Ngãi Tư Kỳ; hình thái sách giáo khoa triết học Mác – Xã hội học đại cương của Lý Đạt; hình thái đương đại của triết học Mác – Lý luận triết học của Đặng Tiểu Bình. Sự biến đổi hình thái của triết học Mác như vừa trình bày ở trên là do sự đòi hỏi của thực tiễn, là sản phẩm của thực tiễn.

Trong số các hình thái của triết học Mác, hình thái Trung Quốc hoá triết học Mác – tư tưởng triết học của Mao Trạch Đông là đặc sắc và điển hình nhất. Chúng ta biết rằng, nội dung cụ thể và hình thức biểu hiện là hai yếu tố cơ bản để cấu thành nên một loại hình thái triết học. Tư tưởng triết học của Mao Trạch Đông là một hình thái phát triển mới của triết học Mác, từ nội dung cụ thể đến hình thức biểu hiện đều đã được Trung Quốc hoá. Những phương pháp, quan điểm và nguyên tắc cơ bản của tư tưởng triết học Mao Trạch Đông là của chủ nghĩa Mác, nhưng những biểu hiện cụ thể của nó thì lại hoàn toàn xuất phát từ thực tế cách mạng Trung Quốc, nó bao hàm tinh hoa của triết học truyền thống Trung Quốc và sự tổng kết triết học đối với kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng Trung Quốc; hơn nữa, còn được trình bày bằng ngôn ngữ, văn tự và cách biểu đạt của người Trung Quốc. Ví dụ, vấn đề thực tiễn trong triết học Mác vốn chiếm một vị trí rất quan trọng, phản ánh tính chất đặc thù của triết học Mác. Trước việc những người theo chủ nghĩa giáo điều coi thường vấn đề thực tiễn, Mao Trạch Đông đã đưa thực tiễn trở thành vấn đề đầu tiên của triết học Mác. Ông đã viết tác phẩm Bàn về thực tiễn, trong  đó lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của triết học Mác, vấn đề thực tiễn được nghiên cứu, luận giải một cách có hệ thống và tường tận. Một ví dụ khác về tính phức tạp của mâu thuẫn trong xã hội Trung Quốc và tính đặc thù của mâu thuẫn trong cách mạng Trung Quốc cho thấy tầm quan trọng của phương pháp nhận thức và giải quyết mâu thuẫn. Mao Trạch Đông đã nắm chắc vấn đề này, lấy học thuyết mâu thuẫn trong triết học Mác làm cơ sở, gắn chặt với việc tổng kết bài học kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc trong nhận thức và giải quyết vấn đề mâu thuẫn, đặc biệt là vấn đề tính đặc thù của mâu thuẫn, tiến hành luận chứng và phát huy một cách có hệ thống. Tác phẩm Bàn về mâu thuẫn ra đời trên cơ sở đó. Trong tác phẩm này, Mao Trạch Đông không chỉ khái quát và nâng kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng Trung Quốc lên tầm lý luận, chỉ ra những “tinh hoa” của học thuyết mâu thuẫn, làm phong phú triết học Mác, mà còn tiếp thu tinh hoa triết học truyền thống Trung Quốc. Ông đã Trung Quốc hoá học thuyết mâu thuẫn của chủ nghĩa Mác trên hình thức biểu đạt bằng ngôn ngữ văn tự.

Đại chúng hoá triết học Mác là kết quả của sự nỗ lực thoát khỏi việc dựa vào người khác, tự mình sáng lập ra một phương thức truyền bá trong quá trình vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc. Sự du nhập triết học Mác vào Trung Quốc tính từ khi dịch và giới thiệu các tác phẩm của các học giả nước ngoài, thông qua các tác phẩm này đã giúp cho người Trung Quốc có được một sự hiểu biết cơ bản đối với triết học Mác, nhưng hạn chế của nó cũng rất rõ. Ví dụ, giữa hiện thực xã hội Trung Quốc và thực tế cuộc sống của người dân Trung Quốc luôn tồn tại một khoảng cách nhất định, tạo nên khó khăn trong việc lý giải và nắm bắt; hơn nữa, việc dịch từ một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác sẽ khó tránh khỏi những sai sót. Những điều này đều không thuận lợi cho sự truyền bá triết học Mác ở Trung Quốc, cũng như việc phát huy tác dụng xã hội của nó. Theo đó, sự vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc không thể chỉ dựa vào các tác phẩm dịch, mà phải từ cơ sở này để phát triển lên. Điều đó có nghĩa là, trên cơ sở nắm chắc triết học Mác, người Trung Quốc đã tiến tới sáng tạo ra một hình thái mới của triết học Mác khiến mọi người (Trung Quốc) có thể dễ dàng tiếp thu và lý giải, cũng như kết hợp chặt chẽ với thực tiễn đời sống và thực tiễn xã hội Trung Quốc. Đây là đòi hỏi tất yếu đối với sự phát triển nhất định của triết học Mác ở Trung Quốc. Ngãi Tư Kỳ là đại biểu cho nhóm người trẻ tuổi có khuynh hướng đi theo chủ nghĩa Mác, đáp ứng những đòi hỏi của lịch sử xã hội. Họ đã mạnh dạn tìm tòi, thử nghiệm và đã thành công khi đưa ra hình thái mới của triết học Mác, đó là hình thái đại chúng hoá. Tác phẩm Triết học đại chúng của Ngãi Tư Kỳ là tác phẩm tiêu biểu nhất và là tiên phong đối với phương diện này. Nối tiếp sau ông là Trần Duy Thực, Thẩm Chí Viễn, Hồ Thằng, v.v.. Những người này đã thông qua các tác phẩm đặc sắc của mình đóng góp cho sự phát triển của hình thái đại chúng hoá triết học Mác. Hình thái đại chúng hoá triết học Mác do họ sáng lập không chỉ làm thay đổi thói quen dựa vào quan điểm của người nước ngoài một cách bị động trong việc vận dụng triết học Mác, mà còn làm phong phú thêm hình thức truyền bá và hình thái biểu hiện của triết học Mác.

Hình thái sách giáo khoa của triết học Mác, mặc dù không phải do người Trung Quốc sáng tạo ra đầu tiên, nhưng ở phương diện này, người Trung Quốc cũng có sự cống hiến. Xét từ góc độ truyền bá triết học Mác, vai trò của hình thái sách giáo khoa là không thể không thừa nhận. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, người Liên Xô lần đầu tiên sáng tạo ra hình thái sách giáo khoa triết học Mác, từng được truyền bá một cách rộng rãi trong phạm vi thế giới và thông qua việc đọc những cuốn sách giáo khoa này, rất nhiều người Trung Quốc đã có thể nhận thức về triết học Mác. Nhưng những nhà mácxít ở Trung Quốc đều không thoả mãn với những cuốn sách này, họ muốn có sự đột phá, thoát khỏi chúng và sáng tạo cái mới. Từ trước khi Trung Quốc được thành lập, Lý Đạt đã cho ra đời tác phẩm Xã hội học đại cương – mà như nhận xét của Mao Trạch Đông, là “một cuốn giáo trình Mác – Lênin đầu tiên do người Trung Quốc tự viết ra”. Tiếp đến đầu những năm 60 của thế kỷ XX, cuốn Chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng được xuất bản – đây là cuốn giáo trình đầu tiên được sử dụng rộng rãi ở tất cả các trường đại học, cao đẳng cũng như các trường Đảng trên toàn quốc. Các tác phẩm này là kết quả của sự tìm tòi nghiên cứu, sự đột phá và sáng tạo do không thoả mãn đối với các giáo trình triết học hiện có. Nhưng, về tổng thể mà nói, Xã hội học đại cương và Chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng đều không có sự đột phá so với sự ảnh hưởng của các giáo trình Xô viết, sự cải biến và sáng tạo chỉ mang tính cục bộ, hữu hạn mà thôi. Vấn đề này không thể chỉ quy về trình độ của các nhà lý luận mácxít Trung Quốc, mà bỏ qua những hoàn cảnh và điều kiện lịch sử lúc đó. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, cùng với sự biến đổi mang tính căn bản của hoàn cảnh và điều kiện lịch sử, vấn đề này mới có thể hy vọng được giải quyết một cách triệt để.

Hình thái đương đại của triết học Mác – tư tưởng của Đặng Tiểu Bình là hình thức kết hợp giữa chủ nghĩa Mác và lý luận của Đặng Tiểu Bình. Trong khi đi tìm một con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã đưa ra những phương châm, đường lối chiến lược, sách lược cụ thể, đồng thời cũng là sự tổng kết triết học đối với việc tìm cho ra một con đường thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. Tư tưởng triết học của Đặng Tiểu Bình sở dĩ được coi như hình thái đương đại của triết học Mác là do tính đương đại của nó. Nghĩa là, Đặng Tiểu Bình đã xuất phát từ thực tế vận động và phát triển của chủ nghĩa xã hội, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, làm cho triết học Mác có nội dung và đặc trưng đương đại. Nội dung và đặc trưng đương đại của triết học Mác tập trung thể hiện trên 2 phương diện sau: 

Một là, sự xuất hiện quan điểm thực tiễn và giương cao tinh thần thực tiễn. Quan điểm thực tiễn vốn là quan điểm cơ bản nhất của triết học Mác, địa vị và vai trò của thực tiễn trong triết học Mác là tối cao. Nhưng trong một thời gian khá dài, tiêu chuẩn thực tiễn bị xem nhẹ, vai trò của thực tiễn bị hạn chế trong phạm vi nhận thức luận, tinh thần thực tiễn bị đè nén, bị giải thích sai lệch. Đặng Tiểu Bình đã phát động và chỉ đạo cuộc thảo luận rộng lớn trên quy mô toàn quốc về vấn đề tiêu chuẩn của chân lý, nhờ vậy đã khôi phục lại địa vị của thực tiễn. Xác định điều này  là mấu chốt, cánh cửa của công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc dần dần rộng mở; từ đây, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc chính thức bước vào một con đường mới. Vấn đề tiêu chuẩn và quan điểm thực tiễn đã trở thành những căn cứ triết học của lý luận mới do Đặng Tiểu Bình lãnh đạo toàn Đảng toàn dân mạnh dạn vượt qua quá khứ, dũng cảm vươn tới tương lai, tìm tòi con đường mới. Nét đặc sắc trong quan điểm thực tiễn của Đặng Tiểu Bình trước hết nằm ở hai chữ “mạnh dạn”, chính là “mạnh dạn thử, mạnh dạn làm” trong thực tiễn. Nhờ vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc vừa “đổ mưa lại nắng hửng lên ngay” (ý nói quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc vừa trải qua một giai đoạn khủng khoảng, sai lầm nhưng đã kịp tìm thấy con đường mới, những nhân tố mới – ND.). Nét đặc sắc trong quan điểm thực tiễn của Đặng Tiểu Bình còn thể hiện ở chữ “thực”. Đối với Đặng Tiểu Bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào không phải là vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn, và chỉ có thể giải quyết được trong thực tiễn. Vì thế, ông phản đối lý luận suông, đề cao thực chất, nhấn mạnh đến hiệu quả thực tế. Từ những năm 60 của thế kỷ XX với lý luận “mèo trắng, mèo đen” đến lý luận “bắt cá” trong những năm 80, chữ “thực” xuyên suốt từ đầu đến cuối. Dưới sự đề xướng và lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình, giới nghiên cứu lý luận Trung Quốc đã sôi nổi thảo luận vấn đề tiêu chuẩn chân lý, tiến hành nghiên cứu vấn đề thực tiễn, khôi phục lại địa vị và giá trị đích thực của vấn đề thực tiễn trong triết học Mác. Quan điểm và tinh thần thực tiễn của triết học Mác được đề cao chưa từng có. Đó chính là những cống hiến của Đặng Tiểu Bình đối với việc phát triển triết học Mác trong thời kỳ đương đại.

Hai là, vấn đề giá trị cũng được đưa ra và đánh giá rất cao. Vấn đề giá trị là sản phẩm của quá trình phát triển của triết học trải qua bản thể luận, nhận thức luận, quan điểm lịch sử phát triển đến một giai đoạn mới. Toàn bộ sự phát triển của triết học đương đại cũng bộc lộ xu thế quay trở lại nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề này. Với tư cách một hình thái của triết học đương đại, triết học Mác cũng bao gồm việc nghiên cứu vấn đề giá trị, đối với vấn đề giá trị có một phương pháp xem xét căn bản. Nhưng do nguyên nhân hiện thực và nguyên nhân lịch sử phức tạp, trong một thời kỳ khá dài, vấn đề giá trị không được các nhà mácxít quan tâm. Mãi đến 20 năm cuối của thế kỷ XX, đứng trước yêu cầu khách quan của thực tiễn cải cách mở cửa ở Trung Quốc cũng như trào lưu phát triển của triết học đương đại, Đặng Tiểu Bình đã hết sức chú trọng vấn đề này, đồng thời vận dụng một cách triệt để tiêu chuẩn và nguyên tắc giá trị của triết học Mác vào thực tiễn cải cách mở cửa ở Trung Quốc. Quan điểm giá trị đặc sắc của Đặng Tiểu Bình được hình thành từ thực tiễn, đây cũng chính là căn cứ để gọi tư tưởng triết học của Đặng Tiểu Bình là hình thái đương đại của triết học Mác. Thực tiễn và lý luận giá trị của Đặng Tiểu Bình bộc lộ rõ đặc trưng sau: trước hết, phải lấy sự “thực sự cầu thị” làm cơ sở, kiên trì sự thống nhất giữa giá trị quan và chân lý quan, đề xướng một loại hình giá trị quan mới của triết học Mác là thực sự cầu thị, truy cầu hiệu quả thực tế. Hai là, lấy “nguyện vọng và lợi ích cơ bản của nhân dân” làm chủ thể của giá trị và chủ thể phán đoán của giá trị. Đây là xuất phát điểm, đồng thời là mục đích cuối cùng của giá trị quan của Đặng Tiểu Bình. Ba là, kết hợp quan điểm giá trị với quan điểm lịch sử, kết hợp vấn đề đánh giá giá trị với vấn đề nghiên cứu bản chất của chủ nghĩa xã hội, đưa ra những khái quát mới về vấn đề bản chất của chủ nghĩa xã hội. Vấn đề thực tiễn giá trị và lý luận giá trị trong tư tưởng triết học của Đặng Tiểu Bình còn có tác dụng thúc đẩy giới triết học Trung Quốc quan tâm và đi sâu nghiên cứu vấn đề giá trị, từ đó giúp cho việc nghiên cứu vấn đề giá trị trở thành một nội dung mới trong sự phát triển triết học Mác đương đại.

IV. Triển vọng phát triển của triết học Mác

Trước hết, đối với bản thân sự phát triển triết học Mác mà nói, do xu thế phát triển trong nước và quốc tế, vị thế “độc bá thiên hạ” của triết học Mác đã thay đổi căn bản. Những sự lý giải, trình bày khác nhau về triết học Mác cùng tồn tại song song đã “hiện diện” trong những năm cuối của thế kỷ XX và phát triển thêm một bước trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Sự đa dạng hoá trong trình bày và lý giải triết học Mác chứa đựng những cơ hội và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của triết học Mác. Thông qua những cách lý giải, trình bày khác nhau, sự tranh luận giữa chúng cũng như sự bổ sung lẫn nhau, triết học Mác sẽ có được hình thái phát triển mới phù hợp với đòi hỏi phát triển của thời đại. Đây là một quá trình lịch sử tuân theo quy luật phát triển khách quan, bất cứ hành động hấp tấp, nóng vội, đốt cháy giai đoạn nào cũng đều phải trả giá đắt. Mác thì chỉ có một, nhưng cách lý giải và trình bày đối với những tư tưởng triết học của ông thì có rất nhiều. Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, xu hướng đa dạng hoá này ngày càng trở thành hình thái phát triển phổ biến của triết học Mác, thể hiện sức sống mới của triết học Mác. Sự tồn tại và phát triển của các hình thức lý giải và trình bày đa dạng đối với triết học Mác sẽ giúp cho sự phát triển của triết học Mác ở Trung Quốc ngày càng có không gian phát triển rộng lớn cũng như có động lực mạnh mẽ hơn.

Thứ hai, đối với mối quan hệ giữa triết học Mác với các trào lưu triết học khác mà nói, trong bối cảnh dung hoà, cùng tồn tại của các loại hình văn hoá và các loại thế giới quan khác nhau, Trung – Tây – Mác – 3 trào lưu triết học lớn sẽ cấu thành nền tảng cơ bản cho sự phát triển của triết học Trung Quốc trong thế kỷ XXI. Trên nền tảng cơ bản này, việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa triết học Trung Quốc và triết học phương Tây sẽ là vấn đề thực tế lớn nhất mà triết học Mác phải đối mặt. Triết học Mác và các trào lưu triết học khác cùng song song tồn tại; trong quá trình đó, triết học Mác cần tiếp thu những yếu tố hợp lý của các trào lưu ấy để làm phong phú thêm nội dung của nó, đồng thời cần phải giữ vững lập trường nguyên tắc, không đánh mất đi đặc trưng và bản tính vốn có, dựa vào sức mạnh của bản thân, củng cố địa vị chủ đạo và phát huy vai trò “dẫn dắt”, kim chỉ nam của mình.

Thứ ba, cần phải làm cho triết học Mác luôn gần gũi với quần chúng. Trong thế kỷ XXI, triết học Mác sẽ phải đối diện với rất nhiều sự cạnh tranh chưa từng có từ bên trong bản thân nó cũng như bên ngoài. Triết học Mác sẽ phải làm gì trước những sự cạnh tranh đó để củng cố địa vị chủ đạo của mình? Mấu chốt là ở chỗ, cần phải làm cho triết học Mác luôn gần gũi với quần chúng, chiếm được lòng tin của quảng đại quần chúng. Nhưng muốn như vậy, cần phải xem triết học Mác có thể đưa ra những giải đáp khoa học đối với những vấn đề thực tiễn lý luận mà đại đa số quần chúng đang quan tâm hay không (như vấn đề sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện nay, tiền đồ của chủ nghĩa xã hội, v.v.). Nếu như triết học Mác có thể giải quyết được những vấn đề mới nảy sinh hiện nay, thoả mãn được sự đòi hỏi của mọi người, thì chắc chắn triết học Mác sẽ chiếm được sự tin tưởng của mọi người, mãi mãi không thể thất bại.

Người dịch: TS.CHU VĂN TUẤN

(Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam)

Tags : khái quát phát triển triết học tác giả tập trung nội dung phân tích tiến trình truyền bá giai đoạn lịch sử thiếu sót quá trình sự biến tồn tại triển vọng khía cạnh quan hệ trào lưu khả năng giải quyết