SỰ THẬT VỀ CÁC KHÁI NIỆM QUEN THUỘC TRONG KITO GIÁO

Bàn về văn chương phương Tây không thể không nhắc tới Kinh Thánh, đây cũng là tác phẩm có số lượng bản in nhiều nhất trong lịch sử nhân loại. Tầm ảnh hưởng rộng rãi của tác phẩm này trong văn hóa gắn liền với sự phát triển và biến đổi của hệ thống Kitô giáo. Bài viết này sẽ trình bày lại bản chất của các khái niệm cơ bản trong Kitô giáo, qua đó gợi ý một phương thức hợp lý để đọc hiểu nghiên cứu những văn bản liên quan đến tôn giáo nói chung và Kitô giáo nói riêng. Tác giả sẽ không tiếp cận vấn đề theo góc độ thần học Kitô giáo được giảng dạy trong các trường dòng, mà tiếp cận theo góc độ phân tích lịch sử các từ ngữ và các biến cố chính trị liên quan trong suốt quá trình hình thành, phát triển và biến đổi của tôn giáo này.

 

I. Kito giáo là gì?

Nhắc đến Kitô giáo người ta thường liên tưởng ngay tới một tôn giáo thờ Chúa, có hệ thống nhà thờ, nơi các cặp đôi học giáo lí hôn nhân và tổ chức lễ cưới. Thực ra Kitô giáo không đơn giản là như vậy. Từ Kitô giáo là dịch ra bởi từ tiếng Anh “Christian”, trong đó Christ bắt nguồn từ “Khristos”, là từ gốc Hy Lạp để chỉ việc “được xức dầu” (tương đương với từ “Messiah” tiếng Do Thái).

Theo kinh điển Do Thái, đấng “được xức dầu” là người sẽ tái sinh vào ngày tận thế để cứu chuộc nhân loại. Anh ta là người sẽ phán xét phân định người tốt, người xấu: ai sống trong sạch và tin vào anh ta thì sẽ được lên thiên đàng; ai từng làm điều tội lỗi và không có lòng tin vào anh ta sẽ bị đày xuống địa ngục. Đó là bản chất của khái niệm Messiah trong tín ngưỡng Kitô giáo.

Những tôn giáo đặt niềm tin rằng có một ngày Tận thế trong tương lai, ngày mà một đấng vĩ đại xuất hiện cứu chuộc loài người lên thiên đàng, và chúng ta sẽ được chọn lên thiên đàng nếu tin vào người đó, đều là Kitô giáo. Kitô giáo hiện nay bao gồm Công giáo La Mã, các hệ phái của Tin Lành và nhiều hệ phái nhỏ khác bắt đầu lẻ tẻ xuất hiện ở đầu thế kỷ XX.

Cần phân biệt rõ Kitô giáo với Thiên Chúa giáo. Thiên Chúa giáo là khái niệm chỉ tất cả các tôn giáo đặt niềm tin vào một vị Thiên Chúa đã khai sinh và cai quản vũ trụ. Thiên Chúa giáo bao gồm cả Kito giáo, Islam và Do Thái giáo. Người theo Islam hay Do Thái giáo đều tin vào Chúa Trời, nhưng họ không tin rằng một ngày nào đó sẽ có ai cứu chuộc cho mình.

Kito giáo phân ra nhiều phái, chẳng hạn như Công giáo La Mã – một giáo hội tự công bố rằng mình là giáo hội của toàn cầu, tự mình đề ra chân lý phổ quát cho nhân loại. Các vị chức sắc trong nhà thờ có quyền luận tội và đánh giá phẩm cách người khác, quyết định xem họ có cơ hội lên thiên đàng hay không. Công giáo tuyên bố “tất cả mọi người trên thế giới đều phải đặt dưới giáo hội này”, những người phục tùng được coi là sạch tội.

Một nhánh khác của Kito giáo là Chính thống giáo phương Đông, rất thịnh ở Nga và các nước Đông Âu. Chính thống giáo phương Đông tách ra từ cuộc ly giáo giữa các giáo hội Kitô giáo, mà cuộc ly giáo đầu tiên là giữa Công giáo của Vantican và cộng đồng tiền thân của Chính thống giáo phương Đông. Người theo Chính thống giáo phương Đông coi mình là những người còn gìn giữ được truyền thống cổ xưa nguyên gốc, những giá trị đích thực ban đầu của Kito giáo. Tuy nhiên, nhánh nào là “chính thống” vẫn là một điều hết sức phức tạp với chính những người theo Kitô giáo.

 

II. Những khái niệm căn bản của Kito giáo

 

1. Thiên chúa

Đây là khái niệm cơ bản cốt lõi nhất của Kito giáo. Thần học Công giáo La Mã hiện tại công nhận Thiên chúa có các đặc tính sau:

  1. Thiên chúa là đấng sáng tạo ra thế giới.
  2. Thiên chúa hằng tồn, tức là tồn tại vĩnh cửu, không bao giờ thay đổi.
  3. Thiên chúa có mặt ở mọi nơi.
  4. Thiên chúa toàn năng.
  5. Thiên chúa toàn thiện.
  6. Thiên chúa yêu thương vạn vật.
  7. Chỉ có một chúa duy nhất.

Đây là 7 tín điều về Thiên chúa được tất cả những người theo Công giáo hiện nay đều mặc định tin theo, coi đó là chân lý mà không chút mảy may nghi ngờ. Nếu nghiên cứu truy nguyên về bản chất của khái niệm, ta sẽ nhận ra rằng thực ra ban đầu, những kinh sách của Kito giáo và trước đó là Do Thái giáo không hề đặt ra những quan điểm như vậy. Hãy cùng điểm qua tên của Thiên Chúa trong lịch sử.

a. Elohim

Tên cổ nhất của Thiên chúa được tìm thấy trong kinh sách Do Thái giáo là Elohim. Các từ điển tôn giáo thường chỉ dịch Elohim là “Thiên chúa” một cách đơn giản, nhưng thực ra từ này xuất phát từ chữ El trong ngôn ngữ Samite. Đây là ngôn ngữ của người bờ Đông vùng Địa Trung Hải, mà hai đại diện còn tồn tại ngày nay là tiếng Hebrew và tiếng Ả Rập. Về mặt từ nguyên, Elohim và Allah (chỉ thiên chúa của người Islam), có cùng một gốc El, với hai nghĩa cổ là sức mạnh và hướng về phía trước (chỉ mục tiêu hoặc động lực chuyển động). Về mặt ngữ nghĩa, cái tên Elohim cho thấy rằng trong mắt dân Samite cổ, sức sống và sự chuyển động mà nó làm nên là những điều thiêng liêng nhất. Quan điểm này đặc biệt khác xa với quan niệm của Kitô giáo ngày nay, và gần gũi với những triết lý được Nietzsche đặt ra trong “Kẻ phản Kitô” và “Zarathustra đã nói như thế”. Trong “Zarathustra đã nói như thế”, Nietzsche đã mô tả con người mới mà nhân loại phải hướng đến trở thành, được ông gọi là Siêu Nhân. Siêu Nhân khác với con người tầm thường ở chỗ họ vượt khỏi tầm ảnh hưởng của hệ thống và đám đông để giữ trọn vẹn được ý niệm căn bản của mình, hay còn gọi là “ý chí cường tráng”. Không rõ tình cờ hay cố ý, nhân vật Superman của DC Comics có tên khai sinh là Kal El. Tiếp theo dòng văn hóa đại chúng, trong phim Superman vs Batman, Superman được xây dựng trên hình tượng một vị chúa toàn năng. Phim có dựng lên màn đối thoại ý nghĩa:

Superman: “Mày sẽ chẳng bao giờ là một vị thần.”

Batman: “Còn mày sẽ chẳng bao giờ là một con người.”

Elohim ban đầu không chỉ Thiên chúa, mà chỉ là cách chia số nhiều của từ El, trong khi đó, El đơn giản nghĩa là một vị thần, thần thánh. Từ này xuất hiện khoảng 2500 lần trong các kinh thánh tiếng Hebrew, đôi khi để chỉ nhiều vị thần, chẳng hạn như khi để chỉ chung các vị thần của người Ai Cập khi dân tộc này ở thế đối địch với dân Do Thái, nhưng cũng có lúc dùng để chỉ riêng vị Thiên chúa của dân Do Thái mà thôi. Trong bản Sáng thế ký bằng tiếng Hebrew, Abraham nói “Những vị thần đã tạo ra tôi”, trong đó Elohim dịch là “các vị thần”, từ “tạo ra” ở đây cũng được chia số nhiều. Chỉ đến khi Sáng thế ký được dịch ra tiếng Anh, từ đó mới được sửa về số ít.

Cách dùng từ này thể hiện một thực tế không thể phủ nhận: vào lúc khởi đầu của tôn giáo Do Thái, không ai cho rằng chỉ có một vị thần duy nhất, tức Do Thái giáo ban đầu vốn là một tôn giáo đa thần. Mỗi dân tộc sống kề nhau trong khu vực Bắc Phi – Trung Đông lại thờ một nhóm các vị thần riêng. Khi dân tộc này xâm chiếm và nô lệ hóa dân tộc kia, họ cũng cướng ép dân nô lệ phải thay đổi tín ngưỡng. Mỗi dân tộc được coi như công cụ của một nhóm thần, và chủ quyền dân tộc thực ra không thuộc về nhân dân hay hoàng tộc, mà thuộc về nhóm thần này đây là chế độ thần quyền. Quan điểm nhất thần, theo đó Elohim là vị thần duy nhất chỉ xuất hiện sau đó, do ảnh hưởng của các dân tộc đã từng nô dịch dân Do Thái, đó là Ai Cập và Ba Tư. Trường hợp tôn giáo truyền qua đường nô dịch này xảy ra phổ biến trong lịch sử, gần gũi nhất ta có thể thấy toàn bộ tôn giáo của Việt Nam hiện tại hầu như truyền đến bởi các dân tộc đã nô dịch Việt Nam về kinh tế, về văn hóa trong quá khứ.

Ai Cập là nơi xuất hiện trường hợp nhất thần đầu tiên của lịch sử nhân loại. Vào thời Pharaoh Akhenaten, xã hội trở nên hỗn loạn do nhiều phe nhóm nổi lên đấu đá nhau, mà mỗi phe nhóm lại lấy một nhóm thần làm thủ lĩnh đại diện. Các thế lực thần quyền, các giáo hội khác nhau xung đột nhau về cả chính trị và còn dùng đến vũ lực. Để dẹp loạn, Akhenaten chọn thần Mặt trời Aten, vị thần vốn được tất cả tôn sùng, làm vị thần duy nhất, và vị Pharaoh này cũng ép tất cả các giáo hội khác phải giải tán. Khi các nhóm tôn giáo tan rã hoặc hoạt động dưới sự kiểm soát của chính quyền, xã hội trở lại ổn định. Ta có thể thấy những cuộc đàn áp tôn giáo để ổn định xã hội tương tự như vậy xuất hiện khá nhiều trong lịch sử, chẳng hạn như ở Việt Nam, có một cuộc đàn áp tôn giáo ở miền Nam khi Ngô Đình Diệm quyết định đàn áp các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo… Thực ra mỗi giáo phái này đã hình thành nên một thế lực cát cứ riêng về mặt quân sự, kinh tế và chính trị, khiến cho tình hình an ninh rơi vào hỗn loạn, khiến chính quyền không kiểm soát hết được. Trong hoàn cảnh như vậy, đàn áp là nhu cầu chính trị hiển nhiên. Tuy nhiên Akhenaten đã thất bại vì những thế lực cũ chưa bị tiêu diệt hoàn toàn đã nổi lên ngay sau khi ông mất, và hệ thống tôn giáo đa thần cũ lại trỗi dậy.

Ảnh hưởng tư tưởng nhất thần từ Ba Tư vào Do Thái là do một tôn giáo thờ ánh sáng: Bái hỏa giáo, hay sau này còn được gọi là Mani giáo. Đây là tôn giáo được sáng lập bởi nhà tiên tri Zarathustra. Ông đề xuất con đường tu tập tâm linh hướng về phía ánh sáng, cái thiện, sức mạnh, tuy nhiên kinh sách quan trọng của tôn giáo này đã bị đốt từ sớm, nên sự phát triển về sau rất có thể đã bị bóp méo nhiều so với nguyên gốc.

b. Adonai

Adonai cũng được dùng để chỉ Thiên chúa, nhưng nghĩa nguyên văn của từ này lại là “những chúa tể của tôi”. Gốc “Adon” nghĩa là chúa tể, đuôi “ai” là cách chia số nhiều trong tiếng Do Thái cổ. Như vậy, cũng giống như từ Elohim, ban đầu từ Adonai dùng để chỉ nhiều vị thần chứ không chỉ một Thiên chúa duy nhất.

c. Yahweh

Tên thứ ba được dùng để chỉ Thiên chúa là Yahweh, dùng trong kinh Cựu ước. Kinh Cựu ước thực ra bao gồm bộ kinh điển Tanakh của người Do Thái được thêm thắt một số kinh mà dân Do Thái không công nhận là bộ kinh cơ bản.

Tanakh gồm có 3 phần. Phần một là ngũ kinh Torah, phần hai là các sách ngôn sứ: sách ngôn sứ Daniel, sách ngôn sứ Enoch; phần ba là các sách văn chương – trước tác của các vị vua huyền thoại trong lịch sử Do Thái. Trong đó, theo các các nhà sử học và khảo cổ học, ngũ kinh Torah, bộ kinh căn bản nhất, thực ra là kết quả của sự tổng hợp, chỉnh sửa và chắp vá tư liệu qua nhiều thời đại của ít nhất là bốn nguồn, hay 4 thế lực khác nhau.

Thế lực đầu tiên, nguồn đầu tiên hình thành nên ngũ kinh Torah là Elohist. Cần biết thêm rằng, Do Thái trước đây không phải một quốc gia đồng nhất, mà gồm 12 chi tộc chi phối lẫn nhau và hình thành cục diện hai nước là Israel ở phía Bắc và Judah ở phía Nam. Giới khảo cổ học kết luận rằng nguồn này bắt đầu từ Israel, vùng phía Bắc của dân tộc Do Thái bây giờ. Nguồn này vốn không hề nhắc đến Yahweh, chỉ đề cập đến El mà thôi. Chúa trời ở đây cũng không hề mang hình dạng con người, mà chỉ là những vận động và quy luật của đời sống.

Nguồn thứ hai, Jawist đã nhắc đến tên Yahweh và gán cái tên này cho El trong câu chuyện của Moses. Các tài liệu Jawist cũng là những tài liệu đầu tiên mô tả Thiên chúa của người Do Thái như một vị thần có hình thể con người và các biểu hiện nhân tính. Đặc biệt, các tài liệu này cũng mang đến cho kinh Torah những chi tiết mô tả mối quan hệ giữa con người và đất đai. Chúng cũng đề cập nhiều đến các địa danh ở đất Judah hơn các địa danh khác ở đất Canaan, nên giới khảo cổ học cho rằng nguồn này xuất phát từ phía Nam, trong khi Elohist là từ phương Bắc.

Nguồn thứ ba hình thành ngũ kinh Torah là từ các thầy tu. Nguồn thứ tư là những người biên soạn sách Đệ Nhị Luật. Chính nhờ sách luật này mà 4 bản kinh được tập hợp lại thành ngũ kinh Torah, bộ kinh căn bản của tôn giáo Do Thái.

Bốn đối tượng và thế lực trên đây đã sửa đi sửa lại Torah nhiều lần trong suốt dòng lịch sử, khiến ngày nay các nhà sử học vẫn còn đang tranh cãi về niên đại của các đợt sửa sách, cũng như những nội dung đã được từng bên đưa vào hoặc xóa đi trong kinh căn bản.

Quay trở lại với Yahweh, điều “gây sốc” là Yahweh hóa ra không phải một vị thần có xuất xứ Canaan, cũng không phải một vị thần Do Thái. Bằng chứng khảo cổ đầu tiên ghi nhận sự hiện diện của Yahweh thực ra không phải ở vùng Canaan, mà trên đất Ai Cập. Người ta tìm thấy dòng chữ “vùng đất của người Shashu của Yahweh” viết bằng tiếng Ai Cập vào thời Amenhoten III (1403 – 1363 TCN). Người Shashu là dân du mục qua lại giữa Edom (vùng đất phía Nam Judah) và Midian (phía Nam Edom, trên bán đảo Arab). Tóm lại, từ Yahweh xuất hiện ở Ai Cập và được viết bằng tiếng Ai Cập trước khi vào Do Thái, điều đó củng cố bằng chứng cho thấy nguồn Jawist xuất phát từ miền Nam.

Về mặt từ nguyên, từ Yahweh này được cho là gần với gốc từ Weh trong ngôn ngữ cổ củ vực tiếng Samite cổ, mang nghĩa là “ông ta thổi”, nghĩa là đây có thể là một vị thần gió. Kinh điển Do Thái tạo ấn tượng rằng ngôi đền ở Jerusalem là trung tâm của tín ngưỡng thờ Yahweh, tuy nhiên trên thực tế, di chỉ đầu tiên tìm thấy của tín ngưỡng này trên đất Israel lại là những bàn thờ lộ thiên trên những ngọn đồi vùng Samaria vào khoảng thế kỷ XII TCN, tức sau khi Yahweh xuất hiện ở Ai Cập độ 100 năm. Bàn thờ này có bao gồm cả những con bò vàng mà dân Do Thái thờ phụng thay vì nghe lời Moses thờ vị thần vô hình đại diện cho lề luật mà Moses hưởng ứng. Nói cách khác, Yahweh không phải là Thiên chúa El của dân Do Thái cổ, mà chính là con bò vàng mà Moses đã phản đối.

Văn bản đầu tiên trong kinh Torah đề cập đến cái tên Yahweh là sách xuất hành. Trong sách này, Yahweh được mô tả như một vị thần đã phái các đội quân trên trời đi quét sạch kẻ thù của dân Do Thái. Việc “đến từ bầu trời” và “quét sạch kẻ thù” củng cố thêm giả thuyết đây là một vị thần gió.

Như vậy, giả thuyết hợp lý nhất là Yahweh vốn chỉ là một trong các El mà thôi. Vị El này xuất phát từ một sắc dân phía Nam, và sau này đã đánh bại các El khác để soán đoạt ngôi vị tối thượng, rồi tự xưng là vị El duy nhất, kẻ sáng tạo, quản lý và phán xét duy nhất trên toàn thế giới. Tuy nhiên, dù cao giọng như vậy, nhưng đến rất lâu sau này, ngoài dân Do Thái ra, vẫn chưa có ai khác công nhận Yahweh.

d. Deus

Deus là cách mà người La Mã xưa và giáo hội Công giáo sau này gọi Thiên chúa.

Tuy nhiên, Deus lại không liên quan gì đến El, Elohim hay Yahweh, mà Deus bắt nguồn từ gốc Deiwos trong ngôn ngữ cổ tiền Ấn Âu. Deiwos nghĩa là “tỏa sáng” (ánh sáng ban ngày). Thực ra cùng một gốc này đã phát sinh các từ sau trong ngôn ngữ cổ ỏ cùng khu vực::

Qua phân tích từ nguyên, ta có thể thấy, lúc khởi thủy, cư dân Bắc Địa Trung Hải và cư dân Canaan có cái nhìn khác nhau về sự thiêng liêng. Dân Hy Lạp và La Mã gắn thần tính với ánh sáng, với sự rõ ràng của ban ngày, khi chúng ta có thể nhìn nhận và phân biệt mọi thứ, tiếp nhận và xử lý thông tin một cách rõ ràng. Trong khi đó, cư dân Canaan lại gắn nó với sức sống và động lực. Đây là hai ý niệm rất khác biệt về tính thiêng liêng. Dù sao đi nữa, có một mối quan hệ từ vựng rất rõ ràng giữa Thiên chúa của Công giáo La Mã với thần Zeus, vị thần tối cao trước đó trong tín ngưỡng đa thần của thế giới Hy Lạp cổ đại, mà sau đó nền văn minh mà La Mã vốn chỉ bắt chước theo với hình tượng Jupiter.

Chúng ta có thể thấy rõ rằng trong các tác phẩm điêu khắc và hội họa của Công giáo La Mã, thời kỳ Phục Hưng, Deus cũng không còn mối liên hệ nào với El vô hình mà Moses đề nghị, cũng không có vẻ gì của Yahweh chiến binh thần thánh từ trên trời thổi xuống truy diệt các đoàn quân, mà là một ông râu rậm cơ bắp trông giống hệt Zeus trong các bức tượng cổ.

e. God

Từ chỉ Chúa được sử dụng phổ biến trên toàn thế giới này xuất phát từ tiếng Đức cổ Guđan. Guđan chưa chắc chắn về mặt từ nguyên, nhưng đa số giả thuyết cho rằng nó xuất phát từ gốc “ghau” trong ngôn ngữ Ấn Âu, nghĩa là “gọi”. Theo đó, God có thể mang nghĩa “người được gọi”, hay “người đáp lời gọi”.

Từ God xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng thế kỷ IV SCN trong bản dịch Kinh thánh sang tiếng Gothic của Wultila. Một số nguồn nghiên cứu cho rằng chữ Gađam này là một biến thể của Wodin, là một vị thần tối cao trong thần thoại Bắc Âu, được thờ rộng khắp trong vùng văn hóa Anh – Đức thời cổ.

Sau khi đế chế La Mã sụp đổ, chính quyền không ai làm chủ. Kinh tế suy yếu khiến các tướng lĩnh không nuôi nổi quân đội, các bộ máy hành chính tê liệt do không thu được thuế. Khi cả tưỡng lĩnh lẫn quan chức đều không còn khả năng nắm chính quyền, quyền lực rơi vào tay giáo hội, thế là giáo hội Công giáo trở thành quyền lực chính trị thay thế chính quyền cũ. Để xây dựng và bành trướng quyền lực của mình trên toàn bộ những vùng lãnh thổ của đế chế cũ, và sau đó là toàn cõi châu Âu, các thầy tu Công giáo buộc phải tăng cường truyền giáo cho những người ngoại giáo, chẳng hạn những người thuộc tôn giáo cổ ở Đức, ở Bắc Âu. Để những người dân này dễ dàng chấp nhận một tôn giáo mới mẻ, họ phải dùng một mánh khóe là gọi Thiên chúa của mình bằng cái tên của vị thần tối cao trong tôn giáo cũ của người dân bản địa. Nói cách khác, Thiên chúa không còn là El hay là Yahweh nữa, mà là Wodin. Ngoài bằng chứng từ nguyên, câu chuyện này còn được củng cố bởi nhiều bằng cớ khác. Chẳng hạn, trong tiểu thuyết của Dan Brown, ông ta có nhắc rằng những trang phục của các hàng giáo chức trong giáo hội Công giáo đang được sử dụng bây giờ là xuất phát từ tôn giáo thờ Mặt trời của người Ai Cập. Một ví dụ khác, những ngày lễ của người Kitô giáo hiện nay, chẳng hạn ngày 25/12 vốn không phải ngày Thiên Chúa giáng sinh, mà là một sự chuyển đổi từ ngày 23/12, ngày Đông chí. Tám ngày lễ của người Kitô giáo thực ra là tám ngày lễ vụ mùa của tôn giáo cổ đã tồn tại ở châu Âu từ trước khi Kitô giáo đến đây. Các ý nghĩa khác sau này đều là chắp nối thêm vào, là thủ đoạn để đưa một tôn giáo nước ngoài vào thống trị tinh thần người dân mà không bị họ phản ứng.

Một mốc lịch sử quan trọng là năm 800, Karl Đại đế (Charlemagne), vị vua của đế quốc Frank, một dân tộc Đức cổ thờ Wodin, thống nhất toàn bộ những lãnh địa cũ trên đất liền của Đế quốc La Mã xưa, để lập nên Đế chế La Mã thần thánh. Karl thành lập một liên minh quyền lực với giáo hội, theo đó Công giáo là quốc giáo trong toàn bộ đế chế. Những vấn đề về tâm linh tư tưởng, giáo hội được toàn quyền quản lý, phần việc chính trị còn lại là của vua, hai bên bắt tay nhau để kiểm soát toàn bộ lãnh thổ. Từ “God” bắt đầu phổ biến từ đây.

 

Sau khi điểm qua lịch sử các tên gọi của Thiên Chúa, quay lại nhìn toàn bộ vấn đè ta sẽ thấy rốt cuộc Thiên Chúa hoàn toàn không giống những đặc tính mà Kitô giáo hiện tại đang mô tả, hay những ảnh tượng mà tín đồ Kitô giáo vẫn hằng tin vào.

Thứ nhất, Thiên Chúa của Kitô giáo không phải là đấng sáng tạo ra thế giới (nếu thực sự có một đấng như vậy), mà là một sản phẩm chính trị. Hình tượng của Chúa thay đổi tùy theo tình hình hoặc các biến cố chính trị. Chẳng hạn một dân tộc xâm lược một dân tộc khác và áp đặt vị thần của mình lên dân tộc bị trị, hay khi các tôn giáo chung sống với nhau trong cùng một khu vực và để hòa nhập họ dùng một tên duy nhất để chỉ hai vị thần hoàn toàn khác nhau.

Thứ hai, Thiên Chúa của Kitô giáo không hề hằng tồn, người ta có thể thay Chúa của mình tùy vào lợi ích chính trị. Ví dụ ngày nay, tất cả các tín đồ Công giáo đều tin vào sự xác thực của bộ kinh Tân Ước, bao gồm 4 Phúc Âm. Người ta không biết rằng 4 Phúc Âm ra đời vì Hoàng đế La Mã Constantinus, để đạt được mục đích chính trị của mình, đã đưa Kitô giáo – tôn giáo đông tín đồ nhất thời bấy giờ thành quốc giáo. Đây là hành động thuần chính trị, bởi Constantinus vốn không theo tôn giáo này ngay cả khi đã biến nó thành quốc giáo, mãi đến  sau này, khi những ràng buộc lợi ích chính trị dồn ép đến không thể từ chối, ông mới miễn cưỡng trở thành một tín đồ trên danh nghĩa của Kitô giáo. Câu chuyện được kể lại đầy tính hình tượng: Constantinus nằm mơ thấy một vị nữ thần khuyên khắc biểu tượng thập tự lên khiên thì sẽ đánh thắng giặc, ông làm theo và quả nhiên giành phần thắng. Thực chất câu chuyện hình tượng trên đã cho ta thấy Constantinus đã dùng tôn giáo làm chính trị, lợi dụng lòng tin của tín đồ để biến họ thành binh lính giúp mình tiêu diệt các thế lực chính trị khác.

Thứ ba, Thiên Chúa không hề có mặt ở mọi nơi, mà chỉ có mặt ở nơi có giáo hội. Và Chúa có thể chuyển từ vùng đất này sang vùng đất kia, chẳng hạn từ Ai Cập tới Do Thái, rồi từ Do Thái tới La Mã, và dần bị biến tướng đi tùy theo con đường của các vị truyền đạo.

Thứ tư, không hề có một vị Chúa duy nhất. Qua phân tích ta có thể thấy có một loạt Chúa tồn tại trong lịch sử, từ một Elohim vô hình đại diện cho những quy luật của tự nhiên, cho đến vị Chúa giống thần Zeus – Deus, rồi đến Jesus sau này…

 

2. Ác quỷ

Ngày nay, những người theo Kitô giáo trên toàn thế giới đều có quan niệm rằng ác quỷ là những nhân vật có nhân dạng như sau: có sừng, tay cầm một cây đinh ba, thỉnh thoảng có cánh dơi, thỉnh thoảng có đuôi nhọn, thường có da màu đỏ. Đó là hình tượng được gán cho Lucifer. Tín đồ Kitô giáo trên toàn thế giới có xu hướng cùng nhau chửi bới miệt thị Lucifer. Trong khi đó, một đám đông khác lại khó chịu với sự miệt thị này cùng với sự tôn thờ Thiên Chúa của cánh Kitô giáo, nên họ quay sang tôn thờ Lucifer. Satan giáo đã trở thành một thứ “mốt” trong giới trẻ trên thế giới, và người ta đã đặt một tượng Satan vào trong khuôn viên trường Harvard rồi gọi đó là Lucifer. Thực ra, hai đám người thù địch ấy đều thiếu hiểu biết và hiểu sai bản chất. Trước tiên ta phải truy về các kinh điển cũ.  

a. Se’irim và Shedim.

Kinh Tanakh của người Do Thái cổ chỉ nhắc đến hai loại ác quỷ, là se’irim và shedim. Se’irim nghĩa là “kẻ lông lá” trong tiếng Do Thái. Từ này ám chỉ những đối tượng có dạng sinh vật lông lá, có sừng, như cừu và dê, mà một bộ phận dân Do Thái thờ làm thần linh trong thời điểm mà các kinh điển được sáng tác. Các Se’irim được thờ ở các bàn thờ lộ thiên, trong những nghi lễ bao gồm các điệu nhảy và các hành vi hoang dã. Các tôn giáo này khá giống với các tôn giáo phù thủy được miêu tả trên phim ảnh, họ dùng bùa chú và tôn thờ sức mạnh dục cũng như quyền năng phép thuật. Những người soạn sách kinh điển thời ấy nhất trí với nhau rằng như thế là không tốt. 

Shedim là một đối tượng khác được một bộ phận dân Do Thái tôn thờ. Từ này được cho là bắt nguồn từ Shedu, một từ đồng nghĩa để chỉ Lamassu, một vị thần hộ mệnh của người Assyria cổ. Lamassu có dạng một con bò đực đầu người có râu rậm có cánh chim. Như vậy, Shedim ít nhiều có liên quan đến tín ngưỡng thờ bò vàng đầy tính thực dụng mà Moses đã lên án.

Điểm chung giữa việc thờ Se’irim và Shedim của các sắc dân xung quanh là các phù thủy đều đem những phép thuật tâm linh tạo ra những kết quả vật chất, chẳng hạn như gây dựng tích lũy tiền bạc, hoặc nguyền rủa ai đó tới chết. Điều này hoàn toàn trái với hệ thống lề luật của Moses: Để giữ được sự tinh khiết, sạch sẽ, dân Do Thái phải từ chối những cám dỗ về mặt vật chất.

Như vậy, các khái niệm ban đầu này mở ra cho ta những quan niệm sơ khởi của dân Do Thái về ác quỷ. Ác quỷ, cả Se’irim lẫn Shedim đều là các thần linh ngoại giáo được dân Do Thái mang về thờ, và những người lãnh đạo dân Do Thái cổ, như Moses, tin rằng sự thờ phụng những vị thần này sẽ khiến họ trở nên hư hỏng, lạc lối.

b. Demon

Khi tôn giáo Do Thái thông qua Jesus được truyền rộng ra thế giới nói tiếng Hy Lạp cổ, trong những nhánh Kitô giáo cổ xuất hiện một đối tượng ác quỷ khác, được gọi là Demon.

Xuất phát từ chữ δαίομαι (daiomai) trong tiếng Hy Lạp, chia nhỏ, chia cắt, phân chia, chia chác. Từ divide trong tiếng Anh hiện đại cũng xuất phát từ nghĩa cổ đó.

Daemon chỉ một nhóm những linh hồn có quyền năng. Khi xuất hiện bên cạnh Theos (thần) trong cùng một văn bản tiếng Hy Lạp, thì Deamon được dùng để chỉ những linh hồn cấp thấp hơn. Bản thân từ Theos được cho là xuất phát từ một gốc mang nghĩa “đặt” (về một vị trí).

Nhìn vào mối tương quan ngữ nghĩa này, ta có thể đặt ra một giả định rằng trong cái nhìn của người Hy Lạp cổ, Theos là những linh hồn có quyền năng dựa trên việc sắp đặt mọi vật vào đúng chỗ, còn Daemon là những linh hồn có quyền năng dựa trên việc chia rẽ con người hoặc cắt nhỏ thông tin. Trong thần thoại Hy Lạp, ta dễ dàng bắt gặp những nhân vật được “gọi bừa” là thần, nhưng theo nguyên nghĩa ban đầu thì đó không phải là Theos, mà chỉ là Demon mà thôi. Chẳng hạn như nhân vật nữ thần bất hòa Eris, kẻ gây chia rẽ giữa các Theos dẫn đến cuộc chiến thành Troy. Những thực thể nắm sức mạnh từ việc chia rẽ này được mô tả rất nhiều trong các nhành huyền môn, thần học ngày nay. Ví dụ như trong “Câu chuyện vô hình” của Hamvas Besla, ông miêu tả những con người hiện đại như là những con người bị cắt nhỏ linh hồn, mỗi mảnh linh hồn vỡ nát không còn ử trong mình nữa mà gắn vào các vật chất. Chẳng hạn như trường hợp người ta quên mất giá trị của bản thân mình, mà gán giá trị của mình vào cái Iphone mình khoe ra, khi đó, mảnh linh hồn anh ta bị gắn vào Iphone. Nói cách khác, toàn bộ hệ thống thông tin trong đầu con người, cách suy nghĩ của con người không còn bị liền mạch nữa, mà bị chia nhỏ ra, gắn vào vật chất. Mô tả của Hamvas Besla thực ra khá gần với cái nghĩa mà người Hy Lạp cổ chỉ khi nói Demon, rồi ngày nay chúng ta gọi là ác quỷ.

c. Lucifer

Hiện nay, người ta thường cho rằng ác quỷ đứng đầu là Satan. Thực chất Satan là gì? Trong tiếng Do Thái cổ, Satan có nghĩa là kẻ địch, không rõ là ám chỉ một nhân vật cụ thể hay là những thần linh ngoại giáo.

Bên cạnh đó, một ác quỷ nổi tiếng rất hay được đưa vào phim ảnh và âm nhạc là Lucifer. Ngày nay, giáo hội vẫn đang tuyên truyền rằng Lucifer là ác quỷ rất nguy hiểm, hay ác quỷ tối cao của các ác quỷ. Đặc biệt, các nguồn tiếng Việt đều đồng loạt cho rằng Lucifer vốn là Tổng lãnh thiên thần vào thời điểm con người bắt đầu sinh ra, Lucifer ghen tị với con người vì được Thiên Chúa ưu ái hơn và lãnh đạo các thiên thần nổi dậy chống lại Thiên Chúa. Sau đó Lucifer bị Michael đánh bại và bị đày dưới địa ngục.

Cho dù các nhà thờ ở Việt Nam ra rả tuyên truyền câu chuyện này, nhưng hóa ra câu chuyện thật lại không như vậy. Lucifer là một từ tiếng Latin, vì vậy chắc chắn nó không xuất hiện trong bản kinh Hebrew gốc. Không ai biết từ Lucifer xuất hiện trong kinh điển Kitô giáo từ bao giờ. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng lúc khởi thủy, từ này chắc chắn không dùng để chỉ ác quỷ. Trong bản dịch kinh Tanakh tiếng Latin của thánh Jerome (năm 382 SCN) từ Lucifer được dùng để dịch cụm từ tương ứng trong tiếng Do Thái có nghĩa là “một ngôi sao buổi sớm”. Lí do: Lucifer nguyên văn mang nghĩa “kẻ mang ánh sáng” (Lucif nghĩa là ánh sáng), và đây là từ mà người La Mã đương thời dùng để chỉ “ngôi sao buổi sớm”, tức sao Mai, sao Kim. Cần lưu ý là văn cảnh mà từ Lucifer xuất hiện trong bản dịch của thánh Jerome cũng không liên quan gì đến ác quỷ. Chẳng hạn, trong Iraia 14:12 từ này dùng để chỉ một nhân vật lịch sử cụ thể là vua Nebuchadnezzar II, người được tiên tri Iraia ví như ngôi sao mai.

Một bằng chứng văn bản khác cho thấy Lucifer không có liên quan gì đến ác quỷ là những trước tác của thánh Augustine thành Hippo. Trong đó, ông cũng dùng từ Lucifer với nghĩa “ngôi sao buổi sớm”.

Lucifer chỉ bị gán với ác quỷ khi Kitô giáo trở thành quốc giáo chính thức của toàn bộ đế chế La Mã sau thời Constantinus, và buộc phải pha trộn với các tôn giáo cũ để thiết lập và bành trướng quyền lực. Nhưng tại sao Lucifer lại gắn với ác quỷ? Là vì từ trước đó đã có một tôn giáo khác lên ngôi ở La Mã gắn ngôi sao kim với Ác Quỷ, đó là tôn giáo cổ Hy Lạp. Trong tôn giáo này có một nhân vật là Phaethon, tên này trong tiếng Hy Lạp nghĩa là “kẻ tỏa sáng”. Phaethon là con của thần Mặt trời Helios. Ghen tị với vầng hào quang của cha, một ngày cậu ta xin phép lái chiếc xe mặt trời thay cha, Helios đồng ý. Lái được một đoạn, Phaethon loạng choạng lao chiếc xe xuống đất, khiến ngọn lửa bốc lên khắp nơi trông như ở hỏa ngục. Zeus thấy vậy liền phóng tia sét giết Phaethon. Câu chuyện Phaethon cố gắng thay thế vị trí mặt trời rất giống câu chuyện Lucifer cố gắng lật đổ Thiên Chúa.

Tuy nhiên, thần thoại gần nhất với câu chuyện về “cuộc chiến trên thiên đàng” giữa Michael và Lucifer lại đến từ tôn giáo thờ thàn Baal, một tôn giáo mà cả Do Thái giáo lẫn giáo hội Công giáo La Mã đều coi là tà giáo. Trong thần thoại của hệ thống này, Attar, vị thần đại diện cho sao mai đã thất bại trong việc lật đổ vị thần tối cao Baal, nên phải rút xuống làm kẻ đứng đầu địa ngục. Baal dịch ra là “Chúa”. Ở đây rõ ràng có sự pha trộn giữa một tôn giáo cổ bị bài bác bởi Do Thái giáo với chính Do Thái giáo trong nội hàm của Kitô giáo hiện nay.

Tại sao lại có sự xuất hiện của các câu chuyện tương tự nhau: giữa Phaethon với Helios, giữa Attar với Baal, giữa Lucifer với Thiên Chúa? Điều này xuất hiện từ một hiện tượng tự nhiên: vào buổi sớm, sao Mai hay sao Kim vẫn hiện trên bầu trời và vẫn tỏa sáng dù các vì sao khác đều lần lượt biến mất, sao Kim chỉ biến mất khi Mặt trời xuất hiện. Những người dân đã gán những câu chuyện thần thoại cho hiện tượng tự nhiên này, theo đó, một ngôi sao nhỏ tìm cách soán ngôi vị của thần Mặt trời tối cao, nhưng sau đó bị đánh bại.

Thế còn câu chuyện Michael chống Lucifer trong cuộc chiến trên thiên đường mà tất cả các nhà thờ ở Việt Nam đang rao giảng thì sao? Trên thực tế, kinh điển Do Thái giáo không hề đề cập đến một cuộc chiến nào như thế. Cuộc chiến trên thiên đường chỉ được đề cập đến trong sách Khải Huyền thuộc kinh Tân Ước mà thôi. Kinh này được viết muộn và chỉ lưu truyền trong Kitô giáo chữ không phải Do Thái giáo. Theo kinh Tân Ước, cuộc chiến nổ ra giữa Michael và Satan (chứ không phải Lucifer). Đó là cuộc chiến sẽ diễn ra trong tương lai, vào thời điểm Tận thế được tiên đoán trong Khải huyền chứ không phải một cuộc chiến đã xảy ra trong quá khứ.

Câu chuyện được mọi tín đồ Kitô giáo thuộc lòng và được lưu truyền trên toàn quốc, rằng Lucifer ghen tị với loài người nên đã nổi dậy trên thiên đường hóa ra không xuất phát từ kinh điển chính thức nào, mà chỉ là chi tiết hư cấu trong cuốn tiểu thuyết Paradise Lost của John Milton, xuất bản năm 1667. Không biết từ bao giờ, chi tiết này được mọi giáo sĩ Việt Nam giảng dạy trong nhà thờ, và mọi giáo dân mặc nhiên tin tưởng.

Một trong những lý do quan trọng khiến Milton và sau đó là chúng ta gắn từ Lucifer với ác quỷ, là những lỗi dịch thuật trong bản dịch Kinh Thánh ra tiếng Anh đời vua James (năm 1611). Các bản kinh dịch sau này chỉ là bản sửa từ đợt dịch năm 1611. Trong bản dịch này, chịu ảnh hưởng bởi tai tiếng mà giáo hội gán cho từ Lucifer (do tham chiếu tôn giáo thờ Baal và tôn giáo cổ Hy Lạp) người dịch đã tưởng rằng mỗi lần chữ Lucifer xuất hiện trong các đoạn kinh thánh, chữ này đề dùng để chỉ tên riêng của Satan. Vì vậy, họ giữ nguyên chữ Lucifer như một tên riêng thay vì dịch nó ra thành “kẻ mang ánh sáng” hay “ngôi sao mai”, từ đó văn bản bị thay đổi toàn bộ ý nghĩa. Chẳng hạn Nebuchadnezzar, thay vì được coi như một người đầy tham vọng như ánh sao buổi sớm, lại bị coi như ác quỷ. Đây hoàn toàn là lỗi dịch thuật, khiến Milton nhầm lẫn, dẫn đến sự ra đời của “chân lý mới” được rao giảng suốt những năm sau này.

 

3. Địa ngục và phán xét

Nhắc đến khái niệm ác quỷ, không thể không tìm hiểu thêm một khái niệm liên quan: địa ngục. Địa ngục gắn liền với một vấn đề quan trọng trong Kitô giáo: vấn đề phán xét. Trong giai đoạn sơ khởi, các kinh của đạo Do Thái không hề nhắc đến khái niệm địa ngục. Chỉ đến giai đoạn khu vực Địa Trung Hải chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp, người Do Thái bắt đầu có khái niệm về cuộc sống sau cái chết. Chẳng hạn, trong Daniel 12:2 có đoạn: “Và nhiều người từng ngủ yên trong cát bụi của đất sẽ thức dậy. Một số để sống vĩnh hằng. Một số để hổ thẹn và bị khinh thường vĩnh viễn.”

Cần lưu ý trong giai đoạn của Daniel, Do Thái giáo không có một học thuyết chính thức về địa ngục. Chỉ có các thuyết của các nhánh huyền môn riêng biệt, mỗi nhánh mô tả thế giới sau cõi chết một cách khác nhau. Nhìn chung, các nhóm không mô tả nó như một thứ địa ngục, nơi ác quỷ giam giữ và hành hạ con người. Ban đầu, thế giới cõi chết thường được mô tả chỉ như một nấm mộ, một nơi khác con người tiếp tục tồn tại sau khi chết, chứ không phải bị giam giữ. Sau đó, vào những giai đoạn muộn hơn, nó được mô tả như một địa điểm diễn ra sự phán xét, nơi mọi người nhận thức đầy đủ những thiếu sót và hành động xấu mà họ từng có trong đời. Điều này là ảnh hưởng từ văn hóa Hy Lạp, bởi vì theo truyền thống Hy Lạp khi con người xuống địa ngục họ bị buộc phải đối mặt với các vị phán quan. Có một dòng tu Kabbalah mô tả nó như là một “phòng chờ”, nơi mọi linh hồn, chứ không chỉ những linh hồn tội lỗi dừng lại trên đường đi. Tuyệt đại đa số các truyền thống Do Thái đều khẳng định rằng các linh hồn không dừng lại trong thế giới cõi chết vĩnh viễn. Điều này rất khác so với Kitô giáo hiện nay.

Truyền thuyết Do Thái không mô tả địa ngục như một cõi vật lí. Thay vào đó, nó giống một nơi mà mọi người rơi vào cảm giác xấu hổ mãnh liệt về tội lỗi của họ, nghĩa là gần như một trạng thái tâm lý thay vì một địa điểm vật lý. Các cánh cổng để trở về luôn luôn mở, và các linh hồn luôn có cơ hội chỉnh sửa ý chí của mình theo ý chúa, để trở về với Chúa.

Đi sâu vào chủ đề địa ngục trong Do Thái giáo cổ, ta có thể tìm hiểu thêm hai khái niệm: Sheol và Ge Hinnom.

a. Sheol

Sheol là tên của địa ngục xuất hiện trong các nguyên thể kinh Do Thái giai đoạn đầu. Nguyên thể của Sheol là Shaol, hàm ý “câu hỏi, chất vấn”. Đây là nơi (hay trạng thái tâm lý) mà tất cả người chết, cả tốt lẫn xấu, đều bước vào sau khi chết, giống như một phiên tòa phán xét mà người ta buộc phải tự soi lại bản thân, đối diện với mọi tội lỗi xấu xa của mình.

Sau này, trong giai đoạn Hy Lạp hóa (không phải giai đoạn du nhập văn hóa Hy Lạp, mà là giai đoạn Do Thái giáo truyền bá ra bên ngoài thông qua Kitô giáo cổ) từ Shaol được dịch thành Hades, là tên vị thần cai quản địa ngục của người Hy Lạp, sau đó từ này lại được dịch thành Hell trong tiếng Anh, là thứu địa ngục bây giờ ta biết. Nhưng Hell và Hades là hai địa ngục có sắc thái hoàn toàn khác nhau, chẳng hạn Hades dịch ra là “không nhìn thấy, không biết”, một nơi hoàn toàn bí ẩn, một “cõi không biết” mà linh hồn con người đến sau khi chết, nhưng lại không có cách nào tìm biết được khi vẫn còn sống. Còn Hell là một vị thần trong Thần thoại Bắc Âu, có một nửa mặt người, một nửa mặt xương bị dòi bọ gặm nhấm. Địa ngục Hell là một địa ngục kinh dị, với các quái thú đe dọa và trừng phạt con người, đó cũng là hình dung phổ biến về địa ngục ngày nay. Trong khi đó, địa ngục Shaol ban đầu, hay Hades sau này thì bị lãng quên.

Kitô giáo vào thời La Mã thêm vào quan điểm rằng vào ngày tận thế, những người chết sẽ trỗi dậy từ Hades để chịu sự phán xét của Chúa trời, sau đó kẻ xấu xuống hỏa ngục chịu đau khổ đời đời, người tốt sẽ lên thiên đàng để sung sướng đời đời. Nhưng địa ngục được nói tới ở đây lại không phải là Shaol hay Hades hay Hell, mà là một khái niệm khác: Ge Hinnom.

b. Ge Hinnom

Ge Hinnom dịch ra là Thung lũng Hinmom, là nơi trẻ em được hiến tế cho một vị thần ngoại giáo của dân Canaan là Moloch. Ở địa ngục này có lửa cháy vĩnh hằng để thiêu đốt các xác chết và các đống rác rưởi xung quanh.

Khái niệm này chỉ được thêm vào kinh sách Do Thái từ thời kì họ lưu vong ở Babylon (thế kỷ thứ 6 TCN). Ge Hinnom cũng không phổ biến trong kinh sách Do Thái giáo bằng khái niệm Sheol/Shaol, tuy nhiên sau này giáo hội Công giáo La Mã dùng kinh điển Do Thái, họ dịch hết thành Hades, điều nực cười là họ không hiểu nó như Hades hay Shaol, mà lại hiểu như Ge Hinnom.

Khái niệm địa ngục của Kitô giáo hiện lên rõ nhất lại qua một tác phẩm văn học chứ không phải thân học: Thần khúc của Dante. Địa ngục trong đây được mô tả gồm nhiều tầng, mỗi tầng phán xét một tội lỗi riêng, có kiểu trừng phạt riêng. Nhưng những mô tả này chỉ là phát triển từ khái niệm Ge Hinnom hiểu lầm mà thôi. Địa ngục mà chúng ta hiểu ngày nay, hóa ra mang nhiều tính văn chương hơn là tính tôn giáo.

 

4. Chúa cha, chúa con

Trong Công giáo La Mã hiện nay, người ta cùng đồng thuận một quan điểm: có ba ngôi Thiên Chúa. Ngôi đầu tiên là Chúa Cha, vị Chúa thống trị toàn thể nhân loại. Ngôi thứ hai là Chúa Con, là Jesus. Thứ ba là Chúa Thánh Thần, một điều gì đó vô hình vô dạng từ Thiên Chúa đã giáng xuống các vị thánh tông đồ sau khi Chúa Jesus thăng, khiến các vị này có quyền năng và đi rao giảng đức tin khắp nơi. Trong toàn bộ lịch sử của Giáo hội, phần lớn thời gian người ta vẫn cãi vã với nhau về mối quan hệ giữa ba ngôi Chúa này. Có những nơi, người ta không công nhận quyền năng của Chúa Thánh Thần, mà chỉ coi Chúa Cha và Chúa Con là quan trọng. Trong đa số dòng Kitô giáo cổ trước thời Constantinus, người ta lại không cho Chúa con là Thiên Chúa, cũng không cho rằng Jesus có vai trò quyết định trong đức tin, không cho rằng Jesus có thần tính của Chúa mà chỉ là một nhà tiên tri bình thường, một giảng sư đi rao lời Chúa mà thôi. Ngày nay, vẫn có một tôn giáo lớn là Islam có quan điểm như vậy. Vào thời điểm giáo hội Công giáo bắt đầu ra đời, đây là một vấn đề gây tranh cãi lớn. Constantinus khi đưa Kitô lên làm quốc giáo đã rất băn khoăn bởi giữa các trường phái Kitô đang hiện diện trên La Mã có mâu thuẫn do họ không đồng nhât squan điểm về vai trò của Jesus hay Jesus có thực sự có phép lạ hay không, liệu Jesus có là Thiên Chúa hay không. Constantinus, cuối cùng, ra một quyết định đầy tính chính trị: quy tụ một đội ngũ biên soạn Kinh Thánh Tân Ước chỉ bao gồm những vị giáo sĩ Kitô giáo đã quy thuận ông ta, gạt bỏ tất cả những phần tử có dấu hiệu chống đối ra ngoài. Nhóm biên soạn này thảo luận kín với nhau và bỏ phiếu để giải quyết bất đồng. Nói cách khác, vị Chúa được bầu lên một cách dân chủ. Sau khi bỏ phiếu, người ta kết luận Đức Mẹ Maria đồng trinh, Jesus có quyền năng của Thiên Chúa… Thần tính của Chúa Jesus đã ra đời như thế. Sau này, chuyện thần tính của Jesus hay Đức Mẹ Maria vẫn thường được đem ra bàn cãi, chẳng hạn như khi Tin Lành (Kháng Cách) xuất hiện, một trong những lý do họ kiên quyết ly khai là bởi họ không chấp nhận được việc Đức Mẹ vẫn còn trinh. Để đảm bảo thần tính cho Chúa Jesus, người ta phải giải thích rằng bà Maria không phải là mẹ Chúa Jesus. Họ dựa vào cuộc bỏ phiếu xưa để có căn cứ rằng Jesus là hiện thân Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì không sinh ra, không mất đi, chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác, do đó Đức Mẹ chỉ là một cổng để Thiên Chúa giáng xuống thế giới mà thôi. Những cuộc cãi nhau như thế thường được lấy làm bình phong tuyên truyền và cái cớ cho các cuộc chiến tranh cướp bóc của phe Công giáo La Mã nhắm vào những người Islam trong nhiều thế kỷ. Tin Lành và Công giáo cũng có nhiều cuộc chiến tranh đã định hình diễn biến chính trị ở nhiều vương quốc, chẳng hạn ở Anh và Đức. Qua đây, một lần nữa, ta thấy rằng Thiên Chúa mà nhiều người tôn thờ ngày nay là một sản phẩm chính trị, và đức tin của những người tôn thờ Thiên Chúa không hề thiêng liêng, mà dựa nhiều trên sự thiếu hiểu biết. (Phải chăng mọi đức tin đều lấy sự thiếu hiểu biết làm cơ sở?). Khi tự mình truy nguyên xem Chúa từng có những tên nào, tên ấy ra đời và được sử dụng chính thức qua những biến cố chính trị nào, ta liệu có còn đức tin vào Thiên Chúa giống như Nhà thờ rao giảng hay không?

 

III. Đề xuất cách tiếp cận các văn bàn tôn giáo

Để phòng tránh tình trạng thiếu hiểu biết, ta cần có một hướng khác để tiếp cận và tìm hiểu tôn giáo.

Trước đây, khi tôn giáo có tính bao cấp và bắt buộc, người ta thường tiếp cận tôn giáo qua các khóa học, các bài giảng trong nhà thờ. Gần đây, khi thị trường tôn giáo mở cửa tự do, người ta tìm đến các vị thầy tâm linh, các vị dạy thiền, dạy nhân điện nhan nhản trên thị trường và nghe những người này diễn giải các văn bản tôn giáo theo cách hiểu của họ. Tuy nhiên, cách học này rất đáng nghi ngờ, bởi thay vì căn cứ vào kinh điển và tài liệu lịch sử, người dạy thường chỉ diễn giải các khái niệm tôn giáo một cách bừa bãi, theo sự phóng chiếu các dục vọng và ảo tưởng của chính bản thân. Cần ý thức rằng tất cả các khái niệm tôn giáo ngày nay chúng ta bắt gặp trong các văn bản tôn giáo đều không nguyên bản và đã qua quá trình bóp méo vì nhiều lý do, có thể vì mục đích chính trị, vì lỗi dịch thuật, hoặc vì những sáng tác của các nhà văn như Dante hay Milton.

Trước tình hình này, chúng tôi đề xuất một hướng tiếp cận tôn giáo khác:

_ Khi đọc một văn bản, ta cần bắt đầu bằng việc hiểu kỹ lịch sử của các khái niệm. Ví dụ, khi tiếp cận Phật giáo, thay vì thuê một vị thầy về giảng cho tiện, hãy tự tìm hiểu xem từng khái niệm trong Phật giáo có lịch sử ra sao. Hãy tự đọc các kinh điển, bằng một ngôn ngữ dịch khác ngoài tiếng Việt nếu có thể, và tìm hiểu lịch sử thật sự đằng sau các cuốn kinh này. Đừng ngạc nhiên nếu sau quá trình này, bạn phát hiện ra rằng hầu hết “kinh Phật” vốn không liên quan mấy đến lời Thích Ca, và ngay cả lời Thích Ca cũng bị định hình bởi những khái niệm, kiến giải và mối quan tâm vốn có trong các trường phái Hindu giáo từ trước.

_ Sau khi biết rõ nghĩa gốc từ nguyên, hãy tìm hiểu những vận động lịch sử xoay quanh các cuộc chuyển đổi khái niệm. Chẳng hạn, khi khái niệm “Thiên Chúa” chuyển dịch từ El đến Yahweh, Deus, God…, đã có những thay đổi nhân khẩu, chính trị, văn hóa, kinh tế nào kèm theo. Càng đọc, bạn sẽ càng thấy tiền và quyền lực đã thay đổi thần thánh nhiều như thế nào, và tôn giáo là thứ trần tục như thế nào.

_ Sau khi nắm chắc bản chất, nguồn gốc và những lý do lịch sử đằng sau các cuộc chuyển đổi khái niệm, có một việc rất quan trọng chúng ta cần làm: quan sát những vận động bên trong tâm trí và cảm xúc của mình khi đọc các văn bản tôn giáo. Thay vì đọc các văn bản tôn giáo như đọc các sách giáo khoa, rồi coi đó như chân lý để mặc nhiên chấp nhận, chúng ta nên quan sát xem khi đọc nó trong ta có cảm xúc và suy nghĩ gì, và coi những cảm xúc và suy nghĩ ấy như một văn bản để phân tích sâu. Rốt cuộc thì mục đích của tôn giáo có là gì khác, ngoài giúp ta tìm hiểu thế giới tinh thần của mình? Như lời Rumi, nhà thơ, nhà huyền môn thời Kỷ Nguyên Vàng Islam: “Khi tôi tìm Thượng Đế, tôi tìm thấy bản thân mình, khi tôi tìm bản thân mình, tôi tìm thấy Thượng Đế”..

Để đi sâu tìm hiểu thế giới tinh thần của mình khi đọc các văn bản tôn giáo, có một phương pháp mà bạn có thể áp dụng. Trước hết, hãy chọn một văn bản tôn giáo, rồi đọc nó một mạch, và thưởng thức nó như thể thưởng thức văn chương. Khi bạn đọc lại văn bản này lần thứ hai, hãy nghiên cứu lịch sử của từng khái niệm trong văn bản, như cách mà tôi đề nghị trong phần đầu của mục này. Còn khi bạn đọc lại văn bản lần thứ ba, hãy vừa đọc, vừa tự quan sát bản thân, và đặt cho mình những câu hỏi:

Một: Cảm xúc thật của mình khi đọc từng phần của văn bản là gì?

Hai: Trong số những cảm xúc đó, có những cảm xúc nào chỉ xuất hiện thoáng qua rồi thôi, và những cảm xúc nào lặp đi lặp lại như một nỗi ám ảnh?

Ba: Vì sao mình lại có những cảm xúc thoáng qua nêu trên? Và những kí ức trong quá khứ nào của mình có thể đã sinh ra những cảm xúc lặp đi lặp lại như một nỗi ám ảnh?
Bốn: Khi đã biết những nỗi ám ảnh của mình và nguyên nhân phát sinh của chúng, mình có lựa chọn nào khác, ngoài việc cứ đi vào lối mòn tâm lí ấy hay không?

Năm: Đâu là thứ cuối cùng còn sót lại trong thế giới tinh thần của mình sau khi mình gạt bỏ hết những nỗi ám ảnh được văn bản tôn giáo gợi lên? Nhưng đó thật sự là một thành tố tinh thần của mình, hay đó chỉ là thứ mà mình từng đọc hoặc nghe trong một văn bản khác?

Qua cách đọc văn bản tôn giáo ấy, ta không chỉ hiểu thêm về văn bản, về những trạng thái tinh thần đằng sau huyền thoại mà các bậc giảng sư ngày xưa nhắc đến, mà còn hiểu thêm về thế giới tinh thần bên trong mình mà các văn bản, các huyền thoại đó đã mô tả. Đó mới là điều ta cần thực sự hướng đến khi ta đi vào đọc các văn bản tâm linh. Chứ không phải chỉ để tìm một vị Chúa để tôn thờ. Hay chỉ để tìm một đức tin để trói mình vào, sao cho không cảm thấy trơ vơ trong cuộc sống.

Tags : văn chương phương tây không thể kinh thánh tác phẩm số lượng lịch sử nhân loại ảnh hưởng rộng rãi văn hóa gắn liền phát triển hệ thống trình bày bản chất khái niệm cơ bản phương thức hợp lý nghiên cứu