Danh sách bài viết

Vấn đề con người trong học thuyết Mác và phương hướng, giải pháp phát triển con người cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay

Triết học

Trong bài viết này, học thuyết Mác về con người đã được tác giả luận giải trên cơ sở làm rõ quan niệm của ông về “cơ sở hiện thực” cho sự tồn tại của con người với tư cách thực thể sinh học – xã hội, về lao động với tư cách điều kiện quyết định của sự hình thành con người, về sự thống nhất biện chứng giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người, về mối liên hệ giữa cá nhân và xã hội và về sự giải phóng con người, giải phóng xã hội. Trên cơ sở này, khi luận giải vấn đề xây dựng con người Việt Nam theo học thuyết Mác, tác giả đã phân tích và làm rõ phương hướng chung về phát triển con người mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định trong công cuộc đổi mới đất nước và đề xuất một số giải pháp để thực hiện phương hướng đó.

V.I.Lênin bàn về nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa

Triết học

Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra những luận giải để chứng minh rằng, đối với V.I.Lênin, tập trung dân chủ là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa cả về phương diện lý luận lẫn phương diện thực tiễn. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ vào đời sống thực tiễn cụ thể của mỗi nước không thể rập khuôn, máy móc, mà đòi hỏi sự linh hoạt và sáng tạo. Những tư tưởng của V.I.Lênin về nguyên tắc tập trung dân chủ có giá trị và ý nghĩa to lớn đối với Việt Nam trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và quản lý xã hội một cách khoa học, hiệu quả.

V.I.Lênin với “chủ nghĩa tam dân” của Tôn Trung Sơn

Triết học

Trước hết, bài viết trình bày những nội dung cơ bản của chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn: chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân quyền và chủ nghĩa dân sinh. Cùng với việc chỉ ra những ưu điểm, những cái mới trong cương lĩnh chính trị này của Tôn Trung Sơn cùng những ý nghĩa của nó đối với cách mạng ở Trung Quốc nói riêng, với cách mạng ở các nước bị áp bức và bóc lột khác nói chung, bài viết còn chỉ ra được những hạn chế trong chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn. Tiếp đó, bài viết trình bày những đánh giá của V.I.Lênin về chủ nghĩa tam dân nói riêng và tư tưởng Tôn Trung Sơn nói chung.

Quan điểm dân sinh và triết lý nhân sinh Hồ Chí Minh

Triết học

Trong bài viết này, tác giả đã luận giải và khẳng định cái làm nên giá trị tinh thần lớn lao và có ý nghĩa cải tạo thực tiễn sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là quan điểm vì con người và giải phóng con người - quan điểm dân sinh thấm đượm chủ nghĩa nhân đạo cao cả và tư tưởng nhân văn sâu sắc, là triết lý nhân sinh. Quan điểm dân sinh đó, triết lý nhân sinh đó lấy thực tiễn cuộc sống làm điểm xuất phát, lấy giải phóng và phát triển con người làm mục tiêu. Đó là quan điểm hành động, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mỗi con người, cho dân tộc và cho cả cộng đồng nhân loại mà hành động, là triết lý của cuộc sống, là đạo lý làm người, đạo lý làm việc. Với Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội không chỉ gắn liền với độc lập dân tộc, mà còn là con đường, phương thức để giữ vững độc lập dân tộc, thực hiện dân sinh và an sinh xã hội.

Hồ Chí Minh với vấn đề dân sinh

Triết học

Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một tư tưởng khoa học và đầy tính nhân văn của Hồ Chí Minh - tư tưởng về dân sinh. Trong quan niệm của Người, chủ nghĩa xã hội gắn chặt với vấn đề dân sinh, luôn coi trọng và thực hiện ngày càng tốt hơn vấn đề dân sinh. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng nêu rõ phương thức, biện pháp để giải quyết một cách hiệu quả vấn đề dân sinh. Đó là thực hành tiết kiệm, phát triển sản xuất, gắn phát triển kinh tế với chăm lo cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Những luận điểm sâu sắc của Người về dân sinh là sự thể hiện tập trung và thiết thực tư tưởng “lấy dân làm gốc”.

Quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về lịch sử triết học

Triết học

Trong bài viết này, sau khi trình bày một cách khái quát quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về lịch sử triết học, những đánh giá, nhận xét của các ông về một số nhà triết học tiền bối, tác giả đã đưa ra nhận xét của mình về quan niệm này của các ông. Theo tác giả, mặc dù bàn tới lịch sử triết học ở nhiều tác phẩm, song các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin không trình bày chi tiết toàn bộ quan niệm, học thuyết của một nhà triết học cụ thể nào; các ông không khảo sát quan niệm của các nhà triết học tiền bối theo trình tự niên đại; về phương pháp luận, việc các ông phân chia triết học thành hai khuynh hướng duy vật và duy tâm là hợp lý; quan niệm của các ông giúp chúng ta sáng tỏ nhiều vấn đề lịch sử triết học, nhưng đó không phải là “giáo trình lịch sử triết học”.

Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người trong thời kỳ đổi mới

Triết học

Bài viết góp phần luận chứng nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người trong thời kỳ đổi mới. Theo tác giả, ngoài việc chủ trương thực hiện ngày càng tốt hơn các chính sách xã hội – chính sách đối với con người, quan điểm gắn mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội, gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội trong từng bước phát triển là những tư tưởng cơ bản, thể hiện tập trung nhận thức mới của Đảng về phát triển con người.

Quan niệm của chủ nghĩa Mác về xã hội dân sự trong chế độ dân chủ và những tư tưởng gần gũi của Hồ Chí Minh.

Triết học

Trong bài viết này, tác giả đã phân tích nhằm làm rõ quan quan điểm của chủ nghĩa Mác về xã hội dân sự, đặc biệt là tư tưởng của Hồ Chí Minh về chế độ dân chủ và Nhà nước dân chủ kiểu mới gắn với mọi công việc của người dân trong xã hội. Trên cơ sở phân tích các quan điểm về xã hội dân sự, tác giả đã rút ra 4 nhận định cơ bản; trong đó có ý kiến đề nghị Đảng và Nhà nước cần thừa nhận, tạo điều kiện và chăm lo cho sự phát triển của xã hội dân sự theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vững chắc, bảo đảm cho sự thành công của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.

Vận dụng phương pháp luận nghiên cứu của Ph.Ăngghen trong điều kiện Việt Nam hiện nay

Triết học

Trong bài viết này, tác giả đã trình bày một cách ngắn gọn, mang tính khái quát quan niệm của Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa cái tất yếu và cái có thể để từ đó, rút ra ý nghĩa phương pháp luận của nó. Bài viết cũng đã chỉ ra và phân tích sự vận dụng phương pháp luận này vào thực tiễn cách mạng Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về giáo dục và ý nghĩa của nó đối với vấn đề đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay

Triết học

Trong quan niệm về giáo dục của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, giáo dục không chỉ được coi là phương thức làm giàu tri thức cho con người, phục vụ cho xã hội, mà quan trọng hơn, giáo dục là cách thức làm cho con người được phát triển toàn diện các năng lực của mình. Điều này đã được Việt Nam quan tâm từ lâu với quan niệm nền tảng coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Song, để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam cần có cải cách trong giáo dục nhiều hơn nữa.

Trách nhiệm môi trường – một phương diện của trách nhiệm xã hội

Triết học

Trong bài viết này, tác giả tập trung làm rõ trách nhiệm môi trường với tính cách một phương diện của trách nhiệm xã hội. Trách nhiệm môi trường là khái niệm tương đối mới, là nội dung căn bản của đạo đức môi trường. Theo tác giả, trách nhiệm môi trường của con người ngày càng quan trọng không kém so với trách nhiệm của con người đối với con người; nó không đơn thuần là trách nhiệm với giới tự nhiên, mà quan trọng hơn, con người phải hành động khôn ngoan để không làm tổn hại đến môi trường vì lợi ích của chính con người và các sinh thể khác.

Bản chất nhân văn của triết học Mác, chủ nghĩa Mác

Triết học

Để làm rõ bản chất nhân văn của triết học Mác, chủ nghĩa Mác, trước hết tác giả đã đưa ra và phân tích truyền thống nhân văn chủ nghĩa ở châu Âu thời Cận đại. Tiếp đó, khi tập trung luận giải bản chất nhân văn của triết học Mác, chủ nghĩa Mác, tác giả đã đi đến kết luận rằng, C.Mác không chỉ kế thừa, mà còn phát triển chủ nghĩa nhân văn ấy lên một trình độ mới, biến nó từ lý tưởng thành thực tiễn cải tạo thế giới. Chủ nghĩa nhân văn của C.Mác là chủ nghĩa nhân văn hiện thực và do vậy, nó vẫn giữ nguyên giá trị trong thời đại ngày nay.

Tam đoạn luận trong học thuyết lôgíc của Arixtốt - một “công cụ” của nhận thức khoa học

Triết học

Trong bài viết này, các tác giả đã phân tích những nét cơ bản trong học thuyết của Arixtốt về tam đoạn luận, đó là các vấn đề liên quan đến “tam đoạn luận”, “tam đoạn luận hoàn thiện” và chỉ ra rằng, hai tam đoạn luận hoàn thiện nhất thuộc dạng hình I là cơ sở cho mọi chứng minh khoa học, tất cả các tri thức khoa học đều cần phải được chứng minh thông qua tam đoạn luận mà các tam đoạn luận dạng hình II, III đều có thể chứng minh là đúng thông qua các “tam đoạn luận hoàn thiện” dạng hình I, trong đó hai tam đoạn luận chung dạng hình I là hoàn thiện nhất và là cơ sở cho mọi tri thức khoa học. Các tác giả cũng diễn giải một số cách chứng minh các tam đoạn luận dạng hình II, III của Arixtốt bằng cách đưa về các tam đoạn luận dạng hình I - dạng hình hoàn thiện.

Xây dựng đạo đức sinh thái – một trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên

Triết học

Bài viết nêu lên những đặc trưng cơ bản của đạo đức sinh thái khác với đạo đức xã hội nói chung. Trong quan hệ đạo đức sinh thái, con người bao giờ cũng là chủ thể, còn tự nhiên bao giờ cũng là khách thể; sự tác động giữa chúng chỉ đi theo một chiều là mang lại lợi ích cho con người và xã hội, bỏ quên lợi ích và giá trị nội tại của các khách thể tự nhiên. Vì vậy, con người đã mang lại hậu quả khôn lường cho môi trường sống. Bài viết đã chỉ ra rằng, đạo đức sinh thái đòi hỏi một sự tự ý thức rất cao. Đây chính là chỗ gặp nhau, chỗ gắn bó giữa đạo đức sinh thái và trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên. Cuối cùng, bài viết khẳng định, trước vấn đề lợi ích trong nền kinh tế thị trường và thực trạng suy thoái nghiêm trọng của môi trường tự nhiên, vấn đề xây dựng đạo đức sinh thái càng trở nên bức xúc hơn lúc nào hết và phải được tiến hành ở mỗi thành phần cấu trúc của nó: ý thức đạo đức sinh thái, quan hệ đạo đức hành vi, kết hợp đạo đức với trách nhiệm xã hội của con người đối với tự nhiên.

Chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Triết học

Tư tưởng đặc sắc của Hồ Chí Minh về “chủ nghĩa dân tộc” của Người đối với nhân dân Việt Nam; về mối quan hệ khăng khít giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng vô sản nói chung và cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam nói riêng; về khả năng, điều kiện và kết quả của sự chuyển hoá từ chủ nghĩa dân tộc thành chủ nghĩa quốc tế… là những nội dung chính của bài viết. Từ đó, bài viết khẳng định rằng, giá trị thời đại của những tư tưởng ấy vẫn luôn sáng ngời và có tầm chỉ đạo chiến lược sống còn đối với tiến trình hiện tại của cách mạng Việt Nam.

Về một số nội dung chưa nhất quán trong lôgíc học truyền thống

Triết học

Bài viết bàn về hai nội dung quan trọng trong giáo khoa lôgíc học, đó là: 1/ Về tính chu diên của các khái niệm trong phán đoán đơn; 2/ Về các loại hình và cách thức của tam đoạn luận nhất quyết đơn trong lôgíc học truyền thống. Trên cơ sở phê phán theo tiêu chuẩn đúng/sai, đầy đủ/thiếu sót, tác giả đã đề xuất phương án thay thế nhằm góp phần tạo nên sự thống nhất về một số vấn đề đặt ra trong hai nội dung trên.

Những tư tưởng thực chứng lôgíc của L.Wittgenstein trong Luận văn lôgíc - triết học

Triết học

Bài viết phân tích những tư tưởng thực chứng lôgíc của L.Wittgenstein trong “Luận văn lôgíc - triết học”. Theo L.Wittgenstein, bản chất và cấu trúc của thế giới chính là thế giới ngôn ngữ được tạo nên từ các câu. Ông đã chia câu thành ba loại. Loại thứ nhất là các câu mô tả các sự kiện, có thể xác định được giá trị lôgíc (chân thực hay giả dối) của chúng. Loại thứ hai là các câu (mệnh đề) toán học và lôgíc học. Loại thứ ba là các câu triết học, mà theo L.Wittgenstein, chúng vô nghĩa. Nguyên nhân khiến chúng vô nghĩa là do các nhà triết học sử dụng sai chức năng của ngôn ngữ. Vì vậy, nhiệm vụ của triết học chân chính, như L.Wittgenstein quan niệm, là phân tích ngôn ngữ.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử – một cống hiến vĩ đại của C.Mác trong lĩnh vực triết học

Triết học

Phân tích những nội dung cơ bản trong chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác, khẳng định tính cách mạng và khoa học của nó, đồng thời luận giải giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của nó trong bối cảnh quốc tế hiện thời, tác giả đã đi đến kết luận: Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác là đúng và sự đúng đắn đó đã được thực tiễn lịch sử nhân loại minh chứng. Không chỉ thế, chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác còn là thành tựu vĩ đại của tư tưởng khoa học, là dấu hiệu cơ bản để phân biệt triết học mácxít và các triết học khác.

Tiếp cận từ giác độ triết học nền kinh tế nông nghiệp tự cấp, tự túc chuyển lên sản xuất hàng hóa

Triết học

Dưới góc độ triết học, tác giả tiếp cận ba vấn đề về nền kinh tế nông nghiệp từ tự cấp, tự túc chuyển lên sản xuất hàng hoá. Thứ nhất, phân tích bản chất và hạn chế của nền kinh tế nông nghiệp tự cấp, tự túc. Thứ hai, bàn về bản chất và tính ưu việt của nền kinh tế nông nghiệp sản xuất hàng hoá. Thứ ba, làm rõ việc chuyển kinh tế nông nghiệp từ tự cấp, tự túc lên sản xuất hàng hoá là một quá trình mang tính quy luật, tất yếu, cần có những điều kiện trực tiếp: phát triển lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội, thị trường, năng lực tổ chức và quản lý, nhân tố tài chính, áp dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ...

Từ "Lôgíc học biện chứng" của E.V.Ilencốp tới triết học văn hóa ngày nay

Triết học

Bài viết đã phân tích, luận chứng để làm rõ lôgíc học với chữ L viết hoa mà E.V.Ilencốp xây dựng nhờ sự chú giải những tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác chính là triết học văn hoá. Đồng thời, luận chứng quan điểm của E.V.Ilencốp về sự thống nhất giữa lôgíc học, lý luận nhận thức và phép biện chứng; khẳng định rằng lôgíc học còn phải thống nhất với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Nhập môn lịch sử triết học – Sự bất biến của cái thần thoại và các yếu tố thế giới quan tiền triết học ở các nền văn minh cổ đại (Tiếp theo kỳ trước)

Triết học

Lịch sử các nền văn minh cổ đại được tính hàng nghìn năm. Tất cả các nền văn minh đó - Ai Cập, Sumerô, Babilon, Ấn Độ, Trung Hoa - xuất hiện và phát triển trong những điều kiện ấm nóng của phù sa mầu mỡ được tạo thành từ những dòng chảy của các sông lớn. Tuy nhiên, hoạt động sinh sống của những cộng đồng người ở các quốc gia đó, giống như thời nguyên thủy, về cơ bản, vẫn là sự thích nghi với môi trường tự nhiên xung quanh và cùng với đó, nỗ lực của chủ thể tập thể cũng không ngừng tăng lên. Đó là việc sử dụng ruộng đất tự nhiên được bổ sung thêm nghệ thuật dẫn nước và lao động có công cụ. Nếu nghề trồng trọt dưới hình thức sơ khai đã từng có trong thời kỳ công xã nguyên thủy, thì ở các nền văn minh này, nó đã trở thành nhân tố chủ đạo trong hoạt động sống của con người, còn nghề chăn nuôi, theo ý nghĩa to lớn của nó, trở thành nhân tố lệ thuộc vào nghề trồng trọt.

Khổng Tử và Hồ Chí Minh: Những tương đồng và khác biệt trong tư tưởng đạo đức

Triết học

Bài viết so sánh một cách trực diện quan điểm đạo đức của Khổng Tử và Hồ Chí Minh ở một số vấn đề cụ thể. Theo tác giả, tư tưởng đạo đức Nho giáo do Khổng Tử sáng lập là một trong những nguồn gốc của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và do đó, những tương đồng trong tư tưởng đạo đức giữa Khổng Tử và Hồ Chí Minh là tất yếu. Song, do thời đại lịch sử và vai trò lịch sử khác nhau, việc tồn tại những khác biệt trong tư tưởng đạo đức giữa Khổng Tử và Hồ Chí Minh cũng là tất yếu.

Nâng cao nhận thức, bổ sung và phát triển triết học Mác - Lênin nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và của thời đại mở rộng giao lưu quốc tế

Triết học

Khẳng định sự cần thiết phải nhận thức lại cho đúng, phải đưa ra những kiến giải mới về các luận điểm cụ thể đã có trong chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng, đồng thời bổ sung và phát triển những luận điểm ấy cho phù hợp với thực tiễn hiện nay, trong bài viết này, tác giả đã chỉ ra và phân tích một số vấn đề liên quan đến lĩnh vực xã hội, như tư tưởng về quy luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, vấn đề giai cấp công nhân, vấn đề nguồn gốc và bản chất của sự sống, nguồn gốc con người với tư cách những vấn đề thời sự cần có sự kiến giải mới, nhận thức mới, bổ sung và phát triển.

Triết học Mác trong những thập niên đầu thế kỷ XXI

Triết học

Vấn đề số phận của chủ nghĩa Mác trong bối cảnh đã xuất hiện các xu hướng phát triển mới của nền văn minh thế giới ở những năm đầu thế kỷ XXI đang trở thành một vấn đề phức tạp và là chủ đề của nhiều hội thảo khoa học quốc tế, khu vực và quốc gia. Nhu cầu tổng hợp lý luận toàn bộ tiến trình phát triển của khoa học, công nghệ, thực tiễn lịch sử trong cả thế kỷ XX – thập niên đầu thế kỷ XXI và những đòi hỏi về nguyên tắc, về định hướng mới cho hoạt động của cả cộng đồng nhân loại trong bối cảnh toàn cầu hoá sẽ không thể giải quyết được một cách trọn vẹn, đầy đủ, chính xác nếu không dựa vào triết học Mác với tư cách lý luận, quan điểm thế giới quan luôn có sự tác động qua lại với các học thuyết và lý luận xã hội khác trong nền văn hoá thế giới đang phát triển.

Sự thống nhất giữa đấu tranh giai cấp và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Triết học

Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa đấu tranh giai cấp và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ở Việt Nam theo hai nội dung: 1) Hồ Chí Minh nghiên cứu, nhận thức sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề đấu tranh giai cấp và đoàn kết giai cấp, dân tộc, quốc tế; 2) Hồ Chí Minh phân tích một cách cụ thể mối quan hệ giữa các giai tầng trong xã hội và chủ động kết hợp đấu tranh giai cấp với xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, không tuyệt đối hoá hoặc xem nhẹ mặt nào trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đã khẳng định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này trong tình hình hiện nay.

Quan điểm của triết học Mác về lợi ích với tư cách động lực của lịch sử

Triết học

Bài viết đã phân tích và luận chứng để làm rõ thêm quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về lợi ích với tư cách động lực của lịch sử. Lợi ích không chỉ là nguyên nhân sâu xa của mọi mâu thuẫn xã hội, mà còn là động lực thúc đẩy hoạt động của quần chúng nhân dân và qua đó, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Việc nghiên cứu lợi ích vừa giúp hiểu rõ thực chất của sự biến đổi lịch sử, vừa cho thấy vai trò to lớn có ý nghĩa quyết định của con người thông qua hoạt động thực tiễn.

Bàn về phạm trù vật chất của V.I.Lênin(*)

Triết học

Trong bài viết “Phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán””, tiến sĩ Phạm Văn Chung đã cố gắng làm rõ thêm định nghĩa vật chất của V.I.Lênin, song đó mới chỉ là sự cảm nhận và khi luận giải đã không tránh khỏi những nhầm lẫn, luẩn quẩn trong việc thể hiện ý tưởng của mình. Với mục đich trao đổi ý kiến của mình với tiến sĩ Phạm Văn Chung, trong bài viết này, tác giả đã cố gắng vạch ra những nhầm lẫn, luẩn quẩn mà tiến sĩ Phạm Văn Chung đã mắc phải khi luận giải định nghĩa vật chất của V.I.Lênin.

Từ quan niệm của C.Mác về “xoá bỏ chế độ tư hữu”, suy nghĩ về vấn đề sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Triết học

Tiếp cận quan niệm của C.Mác về “xóa bỏ chế độ tư hữu” từ hai vấn đề: một là, chế độ tư hữu đã gây ra tội lỗi gì khiến cho nó cần phải bị xóa bỏ; hai là, nếu “xóa bỏ chế độ tư hữu” là cần thiết, là tất yếu thì thời điểm lịch sử của sự kiện đó là khi nào, bài viết chỉ ra rằng, sự “xóa bỏ chế độ tư hữu” chỉ có thể xảy ra một cách nội tại và tuân theo các quy luật khách quan của sự vận động và phát triển của xã hội. Cuối cùng, bài viết chỉ ra mối liên hệ giữa quan niệm của C.Mác về “xóa bỏ chế độ tư hữu” với quan điểm của Đảng ta về vấn đề sở hữu tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, nhất là vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân.

Bản chất khoa học và cách mạng – cội nguồn sức sống của triết học Mác, chủ nghĩa Mác

Triết học

Làm rõ bản chất khoa học và cách mạng là cội nguồn sức sống của triết học Mác, chủ nghĩa Mác trên cơ sở luận giải sự thống nhất biện chứng giữa tính khoa học và tính cách mạng trong triết học Mác, chủ nghĩa Mác về mối quan hệ giữa chúng trên phương diện lý luận và thực tiễn, trong bài viết này, tác giả đã trình bày những suy nghĩ của mình về vấn đề phát triển sáng tạo tính khoa học và tính cách mạng của triết học Mác, chủ nghĩa Mác trong thời đại hiện nay.

Giá trị bền vững của học thuyết Mác về hình thái kinh tế – xã hội

Triết học

Luận chứng cho giá trị bền vững của học thuyết Mác về hình thái kinh tế – xã hội, trong bài viết này tác giả đã đưa ra và phân tích cơ sở khoa học đúng đắn trong quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác, nội dung khái niệm hình thái kinh tế – xã hội, ý nghĩa khoa học và cách mạng của học thuyết này, quan niệm của C.Mác về sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội với tư cách một quá trình lịch sử – tự nhiên và khả năng có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của Việt Nam.