Danh sách bài viết

Triết học Mác - Nền móng cho sự xác lập quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên

Triết học

Trong bài viết này, tác giả đã luận chứng nhằm làm rõ rằng, triết học Mác là một trong những cơ sở lý luận cho sự xác lập mối quan hệ hài hoà giữa con người và tự nhiên. Triết lý của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên đã chỉ rõ cơ sở của chiến lược phát triển bền vững. Triết lý đó không chỉ khẳng định vai trò của con người, mà còn làm nổi bật sự quy định lẫn nhau của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, sự đồng tiến hoá giữa con người và tự nhiên.

"Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" - Một văn kiện mang tính cương lĩnh, có giá trị lịch sử và sức sống thực tiễn của chủ nghĩa Mác

Triết học

Trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại 160 năm qua, kể từ lần xuất bản đầu tiên đến nay, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” đã được thừa nhận không chỉ là tác phẩm lý luận bất hủ, một đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tạo của C.Mác và Ph.Ăngghen, nó còn là một văn kiện mang tính cương lĩnh, có giá trị lịch sử và tràn đầy sức sống thực tiễn của chủ nghĩa Mác. Phân tích và luận giải những tư tưởng cơ bản, những nguyên lý nền tảng mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra, trong bài viết này, một lần nữa, tác giả khẳng định ý nghĩa đó của “Tuyên ngôn”. Và, bằng những thực tiễn sinh động trong phong trào cách mạng thế giới 160 năm qua, nhất là trong những thập niên gần đây, tác giả đã khẳng định, ánh sáng và tinh thần của những tư tưởng cơ bản, những nguyên lý nền tảng trong “Tuyên ngôn” vẫn sống mãi với thời gian.

Triết học Mác ở Trung Quốc (Sự truyền bá, vận dụng, hình thái biến hóa và viễn cảnh phát triển)

Triết học

Bài viết đã dựng lên bức tranh khái quát về sự phát triển của triết học Mác ở Trung Quốc. Trong đó, tác giả tập trung vào một số nội dung chính: 1/ Phân tích tiến trình truyền bá triết học Mác ở Trung Quốc; 2/ Phân tích sự vận dụng triết học Mác ở Trung Quốc qua các giai đoạn lịch sử, chỉ ra một số thiếu sót trong quá trình đó; 3/ Luận giải sự biến đổi hình thái tồn tại của triết học Mác; 4/ Đề cập đến triển vọng phát triển của triết học Mác ở Trung Quốc trên các khía cạnh: đối với bản thân triết học Mác, quan hệ giữa triết học Mác với các trào lưu triết học khác và khả năng của nó trong việc giải quyết các vấn đề lý luận, thực tiễn mới nảy sinh.

Tính sáng tạo của triết học Mác - Thực chất và ý nghĩa lịch sử

Triết học

Để làm rõ thực chất và ý nghĩa lịch sử trong tính sáng tạo của triết học Mác, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải việc C.Mác đã kế thừa có chọn lọc và phát triển sáng tạo di sản văn hoá nhân loại, nhất là lịch sử tư tưởng triết học nhân loại, gắn kết với thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản toàn thế giới và những thành tựu mới của khoa học, gắn kết hữu cơ chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng để tạo nên một học thuyết cách mạng về giải phóng con người, giải phóng xã hội. Với tư cách một hệ thống lý luận chặt chẽ nhưng lại mang tính mở, triết học Mác vẫn giữ nguyên giá trị lịch sử và ý nghĩa cách mạng của nó trong thời đại ngày nay, vẫn là công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ, là cơ sở lý luận và kim chỉ nam cho mọi hành động của chúng ta trong công cuộc đổi mới đất nước.

Vai trò và cơ sở của đoàn kết xã hội ở Việt Nam hiện nay

Triết học

Trong bài viết này, tác giả đã trình bày một cách khái quát những tư tưởng, quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về đoàn kết xã hội; đồng thời, phân tích và luận giải từ góc độ triết học vai trò động lực và cơ sở của đoàn kết xã hội ở Việt Nam hiện nay. Theo tác giả, sự đồng thuận và đoàn kết xã hội là kết quả của việc giải quyết các mâu thuẫn xã hội. Chính sự kết hợp hài hoà các lợi ích xã hội, lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân là cơ sở quan trọng tạo nên sự đồng thuận và đoàn kết xã hội. Đó cũng là cơ sở cho sự phát triển bền vững của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay.

Thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác thực hiện và ý nghĩa của nó đối với việc phát triển triết học Mác - Lênin ở thời đại ngày nay

Triết học

Thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử triết học do C.Mác thực hiện là ở chỗ, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng để tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; đưa triết học trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới; thiết lập mối liên minh giữa triết học và các khoa học cụ thể. Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng đó vẫn giữ nguyên ý nghĩa to lớn của nó trong việc phát triển triết học Mác - Lênin, bởi nó là một hệ thống mở, gắn bó hữu cơ với thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân, với các khoa học cụ thể.

Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội và cuộc thử nghiệm trong thế kỷ XX

Triết học

Trên cơ sở phân tích, luận chứng tính khoa học và cách mạng sâu sắc trong học thuyết về hình thái kinh tế – xã hội của C.Mác, thể hiện qua một số luận điểm chủ yếu như, học thuyết này đã vạch rõ quy luật phát triển tự nhiên của xã hội và chứng minh tính tất yếu của chủ nghĩa cộng sản cũng như con đường đi lên xã hội cộng sản chủ nghĩa, tác giả đã bảo vệ và khẳng định giá trị, tính đúng đắn trong lý luận của C.Mác về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Theo tác giả, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu không thể được coi là dấu hiệu khủng hoảng của tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, tác giả cũng luận chứng sự phát triển của đội ngũ công nhân trí thức và cho rằng, đây là vấn đề mới cần được bổ sung nhằm phát triển học thuyết Mác về hình thái kinh tế – xã hội.

Cách mạng tháng Mười Nga và triển vọng của chủ nghĩa xã hội hiện thực

Triết học

Khẳng định giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga và triển vọng tươi sáng của chủ nghĩa xã hội hiện thực, trong bài viết này, tác giả tập trung làm rõ tính tất yếu, khách quan, hợp lôgíc và vai trò “đột phá khẩu” của Cách mạng Tháng Mười Nga; nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu; những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản hiện thời không thể giải quyết được; xu hướng vận động trong những điều kiện mới của chủ nghĩa xã hội hiện thực từ thực tiễn cải tổ, đổi mới.

Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của V.I.Lênin và ảnh hưởng của nó đối với sự hình thành tư tưởng Nguyễn Ái Quốc về con đường cách mạng Việt Nam

Triết học

Trong quá trình hoà mình vào cuộc đấu tranh sôi nổi của phong trào công nhân và Đảng Xã hội Pháp để tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã được đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin. Người đón nhận những tư tưởng cách mạng của V.I.Lênin với niềm phấn khởi và tin tưởng của một người chiến sĩ cách mạng sau nhiều năm nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tiễn. Tác phẩm đã giúp Nguyễn Ái Quốc tìm thấy lời giải đáp cho những câu hỏi lớn về vận mệnh dân tộc, soi sáng con đường giải phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người đã tích cực xúc tiến công tác chuẩn bị những điều kiện cần thiết, hướng phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam vào quỹ đạo của cách mạng vô sản.

Về số phận của Nho giáo

Triết học

Nho giáo là một trong số hiếm hoi các học thuyết chính trị – xã hội có số phận thật đặc biệt trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Đặc biệt ở chỗ, trải qua hàng nghìn năm, đến nay, Nho giáo vẫn là một “học thuyết sống”- còn đang sống, chứ không phải chỉ được trưng bày trong các “bảo tàng” như không ít học thuyết khác.

"Xóa bỏ một các tích cực chế độ tư hữu" từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin đến sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước

Triết học

Trên cơ sở làm rõ quan niệm của C.Mác về “xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu”, sự kế thừa và phát triển quan niệm này ở V.I.Lênin, tác giả bài viết đã khẳng định tính đúng đắn và sự sáng tạo của Đảng ta khi vận dụng quan niệm này của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin vào bối cảnh lịch sử – cụ thể ở nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước. Tác giả bài viết cũng đã khẳng định, trong công cuộc đổi mới đất nước ở nước ta hiện nay, “xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu” không có nghĩa là xác lập, củng cố chế độ tư hữu bằng mọi giá, mà là thực hiện một cách đúng đắn, sáng tạo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn, xây dựng có hiệu quả hơn.

Triết học Mác và nền văn minh công nghiệp

Triết học

Khẳng định chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng chỉ có thể và đã thực sự xuất hiện trong bối cảnh của nền văn minh công nghiệp hoá đã hình thành ở phương Tây nửa đầu thế kỷ XIX, trong bài viết này, xuất phát từ quan niệm duy vật về lịch sử và lý thuyết hình thái kinh tế – xã hội với tư cách hạt nhân của học thuyết Mác, tác giả đã đưa ra và luận giải mối quan hệ giữa triết học Mác và nền văn minh công nghiệp hoá. Từ sự luận giải đó, tác giả đã đi đến kết luận: Khi xây dựng lý thuyết hình thái kinh tế – xã hội, C.Mác đã đưa ra những đặc trưng và giá trị sâu xa của loại hình phát triển văn minh này vào quan niệm của ông về tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại trong tương lai.

Phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán"

Triết học

Bàn về phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng được V.I.Lênin đưa ra trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, tác giả đã đưa ra và luận giải: 1. Bối cảnh lịch sử của quan niệm Lênin về vật chất; 2. Những định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất; 3. Những đặc tính (thuộc tính) của vật chất theo quan điểm duy vật biện chứng.

Về giá trị thời đại của triết học Mác

Triết học

Khẳng định giá trị thời đại của triết học Mác với tư cách “công cụ nhận thức vĩ đại”, trong bài viết này, tác giả đã tiến hành luận giải vai trò đó của triết học Mác trong việc lý giải những biến cố của lịch sử nhân loại cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI để từ đó đi đến kết luận: Sở dĩ triết học Mác mang giá trị thời đại là bởi trong bản thân nó đã hàm chứa những đặc trưng cho phép nó đi cùng thời đại. Rằng, triết học Mác đã kế thừa và phát triển sáng tạo những thành tựu của toàn bộ tư tưởng triết học nhân loại; nó là một hệ thống mở, luôn tự đổi mới như một nhu cầu tự thân để đáp ứng sự biến đổi không ngừng của thực tiễn cuộc sống.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thiếu niên

Triết học

Bài viết phân tích một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên. Đó là các tư tưởng: vai trò của thanh niên, vai trò của giáo dục thanh niên, giáo dục toàn diện và đặc biệt là giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho thanh niên, vai trò của nhà trường và tổ chức Đoàn đối với việc giáo dục thanh niên… Trên cơ sở khẳng định ý nghĩa và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, tác giả cho rằng, trong điều kiện hiện nay, cần quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt những lời dạy của Người về vấn đề này; rằng, để phát huy vai trò người chủ tương lai của đất nước, thanh niên cần phải “sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”.

Tìm ra cách phá vỡ định luật thứ hai của nhiệt động lực học

Triết học

Các định luật động lực học là một trong những nguyên tắc quan trọng trong vật lý hiện đại, bởi chúng xác định được ba đại lượng vật lý cơ bản là nhiệt độ, năng lượng và entanpi trong nhiều tình huống khác nhau.

Quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác và ý nghĩa thời đại của nó

Triết học

Trên cơ sở trình bày một cách khái quát những nguyên lý cơ bản nhất của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong bài viết này, tác giả đã luận chứng nhằm làm sáng tỏ, nổi bật thêm ý nghĩa thời đại của triết học Mác; phân tích những giá trị khoa học không thể phủ nhận trong tư tưởng của C.Mác về sự phát triển của xã hội, nhất là tư tưởng về sự hình thành và phát triển như một tất yếu khách quan của chủ nghĩa xã hội. Theo tác giả, nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là phải nghiên cứu sâu và cụ thể hoá hơn nữa các nguyên lý chung của chủ nghĩa duy vật lịch sử, vận dụng và phát triển sáng tạo triết học Mác để giải quyết những vấn đề mà thời đại đặt ra cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới.

Phương pháp tiếp cận di sản kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin

Triết học

Chủ nghĩa Mác - Lênin là một khoa học và do vậy, nó phải được đối xử như một khoa học. Trên thực tế, ở những mức độ khác nhau, việc nghiên cứu, nhận thức, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin chưa được đối xử như một khoa học. Vì vậy, để phát huy vai trò và đảm bảo sức sống của nó, chúng ta cần phải nhận thức lại di sản kinh điển. Có thể có nhiều cách tiếp cận khác nhau để nhận thức lại di sản kinh điển, trong đó vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận duy vật biện chứng là cách tiếp cận đáng tin cậy và phù hợp nhất. Nguyên tắc này đòi hỏi phải xem xét các quan điểm, tư tưởng của chính các nhà kinh điển (trong các nguyên tác), chứ không phải là những cái mà người ta lĩnh hội, giải thích hoặc áp đặt cho nó; đánh giá giá trị phải trên tinh thần vô tư, khoa học, không thiên vị; ngoài ra, phải đặt các di sản này trong chỉnh thể của hệ thống lý luận khoa học, trong điều kiện lịch sử – cụ thể và trên cơ sở thực tiễn.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới

Triết học

Trên cơ sở phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc: mục tiêu, vai trò, động lực, cơ sở xã hội, yêu cầu, hình thức thể hiện của đại đoàn kết dân tộc qua các thời kỳ cách mạng, bài viết làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta đối với tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh thông qua đổi mới nhận thức về sự thống nhất giữa các loại lợi ích như là cơ sở cho đại đoàn kết dân tộc trong điều kiện mới. Qua đó, bài viết phân tích mục tiêu, yêu cầu, phương hướng và giải pháp củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay.

Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý tưởng và hiện thực vào nghiên cứu lý luận chính trị ở nước ta hiện nay

Triết học

Bài viết phân tích sự vận dụng nguyên tắc về sự thống nhất giữa lý tưởng và hiện thực của chủ nghĩa Mác - Lênin vào việc nghiên cứu lý luận chính trị ở nước ta hiện nay. Theo tác giả, sự thống nhất giữa cái lý tưởng với cái hiện thực không chỉ là yêu cầu, đòi hỏi của đời sống hiện thực, mà còn là điều kiện, sức sống nội tại mang tính động lực của hoạt động lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay. Hoạt động lý luận chính trị hiện nay cần tập trung vào một số nội dung ưu tiên sau: nghiên cứu mô hình phát triển riêng của Việt Nam; vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam trong điều kiện mới; phát huy vai trò của lý luận đối với sự vận động, phát triển của thực tiễn; tổng kết thực tiễn để tiếp tục phát triển lý luận.

Sức sống của triết học Mác trong xã hội hiện đại

Triết học

Bản chất khoa học và cách mạng của triết học Mác được thể hiện ở: thứ nhất, thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác là kim chỉ nam cho hoạt động nhận thức và cải tạo xã hội; thứ hai, sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc nền tảng của triết học Mác; thứ ba, triết học Mác là sự thống nhất giữa tính mở, tính phát triển của hệ thống lý luận và tính ổn định của lập trường duy vật biện chứng và những phương pháp luận cơ bản của nó. Đó là những giá trị vĩnh hằng của triết học Mác. Những giá trị đó đã làm nên sức sống của triết học Mác trong xã hội hiện đại, nhưng để giữ được sức sống ấy, bản thân triết học Mác cũng phải được đổi mới trước những biến đổi của đời sống xã hội hiện đại.

Đánh giá của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn đề con người trong triết học L.Phoiơbắc qua "Hệ tư tưởng Đức"

Triết học

Mặc dù đánh giá cao L.Phoiơbắc, song C.Mác và Ph.Ăngghen cũng khẳng định triết học nhân bản của L.Phoiơbắc còn nhiều hạn chế cần phải phê phán. Cụ thể là: 1/L.Phoiơbắc đã xem xét con người một cách trừu tượng, con người phi giai cấp, phi lịch sử và tách biệt khỏi cơ sở tồn tại hiện thực của nó; 2/ Ông không thấy được sự khác biệt cơ bản giữa con người và các loài động vật khác bắt đầu từ hành vi sản xuất vật chất; 3/ L.Phoiơbắc không lý giải một cách duy vật về nguồn gốc của ý thức và tư duy của con người; 4/ Ông đã dành chỗ cho chủ nghĩa duy tâm và thần học khi cho rằng, động lực của lịch sử là sự thực hiện những khát vọng cá nhân và lịch sử nhân loại là sự thay thế lẫn nhau của các hình thức tôn giáo.

Bước đầu tìm hiểu những vấn đề lịch sử về xung đột xã hội

Triết học

Xung đột xã hội và đồng thuận xã hội là những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Trong bài viết này, tác giả đã khảo sát các quan niệm khác nhau trong lịch sử về xung đột xã hội, từ thời cổ đại, cận đại đến nửa đầu thế kỷ XX. Theo tác giả, những ưu điểm và nhược điểm tạo thành thực chất của hiện tượng hết sức phức tạp như xung đột xã hội, ở mức độ đáng kể, được xác định bởi đặc điểm phương pháp luận của các phương hướng nghiên cứu; chúng ta có thể lựa chọn trong đó những tư tưởng có tính phổ quát và tính thời sự đối với các quan điểm hiện đại về xung đột xã hội.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội

Triết học

Một trong những tư tưởng nổi bật của Hồ Chí Minh là tư tưởng coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Theo Người, sự nghiệp đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xây dựng chế độ xã hội mới, giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh…, xét đến cùng, là vì hạnh phúc, vì sự phát triển toàn diện của con người. Đến lượt mình, con người lại là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Vai trò to lớn đó của quần chúng nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, thể hiện ở chỗ: họ là lực lượng chính của sự nghiệp đấu tranh cách mạng, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất và là chủ thể sáng tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội.

Ý thức văn hoá trong “Đại Việt thông sử” của Lê Quý Đôn

Triết học

Bài viết khảo cứu khía cạnh ý thức văn hoá trong những bản Chiếu thư, Tấu sớ, Hịch được ghi chép trong cuốn “Đại Việt thông sử” do Lê Quý Đôn biên soạn. Trên cơ sở xác định rằng, nội dung của ý thức văn hoá rất rộng lớn, bài viết chỉ đi vào một vài khía cạnh trong những nội dung đó. Cụ thể, đó là vấn đề ý thức mệnh trời, vấn đề ý thức lịch sử và vấn đề ý thức chủ thể (chủ quyền). Từ đó, tác giả bài viết đưa ra những nhận định, đánh giá của bản thân về ý thức văn hoá của người Việt trong thời kỳ phong kiến và trong mối tương quan với văn hoá - lịch sử Trung Quốc.

Biện chứng trong "Tuyên ngôn độc lập"

Triết học

Bài viết này chỉ đề cập tới một vài nét trong cái biện chứng được hiện hình ở Tuyên ngôn độc lập, chỉ ra các mặt đối lập mà sự thống nhất và đấu tranh của chúng làm nên hạt nhân phép biện chứng của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Đó là sự đối lập giữa một bên là những kẻ ngoại bang xâm lược, thống trị và một bên là cộng đồng dân tộc Việt Nam với một bề dày truyền thống. Bài viết cũng chỉ ra biện chứng sáng ngời bản sắc Việt Nam thể hiện ở chỗ, chúng ta là đại diện cho cái nhân nghĩa đối mặt với cái phi nhân, phi nghĩa; biện chứng của tiến trình đấu tranh và sản phẩm của tiến trình ấy;… Biện chứng khách quan này đã dẫn đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, tới việc hình thành nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và định hướng cho sự phát triển của Việt Nam trong hơn 60 năm qua.

Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam hiện nay

Triết học

Trong bài viết này, tác giả khẳng định rằng, trong hàng loạt nhân tố tạo nên sự thành công của quá trình đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam, triết học Mác - Lênin có vai trò đặc biệt quan trọng. Theo tác giả, trong điều kiện hiện nay, triết học Mác - Lênin vẫn giữ được tính khoa học và đúng đắn, vẫn giữ nguyên giá trị định hướng cho những người cách mạng; nó giúp cho Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam nhận thức đúng các vấn đề của thời đại có liên quan chặt chẽ đến đổi mới tư duy lý luận; đồng thời, là cơ sở lý luận và phương pháp để tư duy đúng đắn về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả nhấn mạnh rằng, nắm vững các vấn đề cơ bản của triết học mácxít và không ngừng hoàn thiện phương pháp tư duy có ý nghĩa vô cùng to lớn trong đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy lý luận.