Danh sách bài viết

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân

Triết học

Ngay từ khi còn đang trong quá trình tìm tòi con đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã có những nhận thức sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của nhà nước pháp quyền đối với việc tổ chức và quản lý xã hội. Người chủ trương sau khi Việt Nam giành được độc lập, chúng ta phải xây dựng một nhà nước kiểu mới – Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tính nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thể hiện ở cả mục đích, nguyên tắc tổ chức lẫn phương thức hoạt động của nhà nước. Nhà nước đó phải được tổ chức một cách hợp hiến, hợp pháp; hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật, thể hiện sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị… Nó phải thực sự là công cụ quyền lực của nhân dân lao động; phản ánh, thực hiện và bảo vệ lợi ích của nhân dân.

Trách nhiệm xã hội và vai trò của nó trong cơ chế thị trường ở nước ta

Triết học

Khẳng định trong bối cảnh toàn cầu hoá và phát triển kinh tế thị trường, việc thảo luận những vấn đề bản thể của trách nhiệm xã hội là cần thiết, trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và phân tích những quan niệm khác nhau về trách nhiệm xã hội, về vai trò của trách nhiệm xã hội đối với sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.

Tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ về dân sinh và xây dựng xã hội hài hoà

Triết học

Trong bài viết này, tác giả đã góp phần làm rõ thêm những nội dung cơ bản trong các tư tưởng quan trọng của Nguyễn Trường Tộ về dân sinh và xây dựng xã hội hài hoà. Điều đáng quý ở Nguyễn Trường Tộ là, ông không những đưa ra những nội dung cụ thể, rõ ràng về dân sinh, mà còn luôn trăn trở tìm kiếm các phương thức mưu sinh cho dân chúng. Đồng thời, ông còn đưa ra những tư tưởng sâu sắc về xã hội hài hoà cũng như các phương pháp để thực hiện xã hội lý tưởng. Theo tác giả, tư tưởng về dân sính và xã hội hài hoà của Nguyễn Trường Tộ đầy sức sống, có giá trị gợi mở đối với việc xây dựng một đường lối phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay.

Xu hướng phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế

Triết học

Trên cơ sở khái quát hoá quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về giai cấp công nhân, tác giả đã phân tích sự biến đổi của giai cấp công nhân hiện đại trên thế giới về trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp, về quyền sở hữu,… Đặc biệt, tác giả đã rút ra một số nhận định về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Việc nhận thức rõ các xu hướng này để có những đối sách thích hợp nhằm làm cho giai cấp công nhân dù trong hoàn cảnh nào cũng giữ được vai trò tiên phong của mình.

Vấn đề dân sinh trong Đại việt sử ký toàn thư và ý nghĩa thời đại của nó

Triết học

Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ sử lớn của Việt Nam, ghi chép lại những sự kiện lịch sử của gần 3000 năm (từ thời Hồng Bàng đến năm 1675). Đây cũng chính là kho dẫn chứng dồi dào cho vấn đề dân sinh của bài viết này. Trong bài viết này, vấn đề dân sinh được tác giả xem xét trong ba lĩnh vực: đời sống sản xuất vật chất xã hội, chính trị - xã hội và đời sống tinh thần của xã hội. Theo tác giả, nhiều triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam đã ban hành và thực thi các chính sách dân sinh và an sinh xã hội, thậm chí khái niệm dân sinh cũng đã xuất hiện trong bộ sử ký này. Cuối cùng, tác giả chỉ ra bài học quý giá từ vấn đề dân sinh trong lịch sử đối với giai đoạn phát triển hiện nay ở Việt Nam

Về một số thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài

Triết học

Trao đổi về một số thuật ngữ triết học, chính trị - xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, trong bài viết này, tác giả đã khẳng định cách phiên âm tên địa phương và tên người ra tiếng Việt tuy đã có nhiều đổi mới, nhưng vẫn còn chưa thống nhất; việc phiên dịch các thuật ngữ thì một số thiếu chính xác, một số sai cơ bản, một số khác tuy không sai nhưng cũng cần phải tìm hiểu mới có thể sử dụng đúng được.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - Bước phát triển mới về đạo đức trong văn hóa Việt Nam

Triết học

Trong tư tưởng đạo đức của mình, Hồ Chí Minh đã phát triển các giá trị đạo đức dân tộc, tiếp biến tinh hoa đạo đức của nhân loại, xác lập nhiều chuẩn mực đạo đức mới trong văn hoá Việt Nam. Các tư tưởng về công bằng, bình đẳng xã hội; về sự kết hợp giữa lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân; về chủ nghĩa yêu nước kiểu mới, về lòng khoan dung và nhân đạo; về đạo đức sinh thái… dựa trên nội dung mới của phạm trù thiện - ác, lương tâm, vinh dự, trách nhiệm xã hội và ý nghĩa cuộc sống đã nâng nền văn hoá Việt Nam lên một giai đoạn phát triển mới, đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Vì vậy, việc giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là giải pháp lớn trong lịch trình xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI.

Tư tưởng triết học Trần Thái Tông

Triết học

Bài viết phân tích triết học Phật giáo Trần Thái Tông trên ba khía cạnh cơ bản: bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan. Theo các tác giả, Trần Thái Tông không chỉ là một vị vua anh hùng dám xả thân vì nghĩa và vì quốc gia xã tắc, mà còn là một triết gia với những tư tưởng độc đáo, đặc sắc về triết học Phật giáo. Trong đó, chúng ta phải đặc biệt kể đến sự kết hợp hài hoà giữa chủ nghĩa yêu nước với tinh thần nhập thế cao cả, đem đạo vào đời để cứu dân độ thế của ông. Giá trị của tư tưởng triết học Trần Thái Tông không chỉ là chấm dứt sự tản mát về tư tưởng giữa các dòng thiền cuối thời Lý, mà còn là một trong những tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Học thuyết Mác và vấn đề hoàn thiện các yếu tố của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay

Triết học

Dựa trên quan điểm của học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội nói chung, về phát triển lực lượng sản xuất nói riêng, trong bài viết này, tác giả đã làm rõ một số nguyên tắc, phương châm cơ bản trong việc vận dụng quan điểm của C.Mác nhằm phát triển và hoàn thiện các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.

Trần Quý Cáp – nhà tư tưởng theo khuynh hướng Duy tân

Triết học

Trần Quý Cáp (1870 - 1908) tự Dã Hàng và Thích Phu, hiệu Thai Xuyên, người thôn Thai La, xã Bất Nhị, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, nhưng với bản tính thông minh, chịu khó học tập, ông đã trở thành một trong sáu học trò giỏi ở trường tỉnh lúc bấy giờ (cùng với Phạm Liệu, Nguyễn Đình Hiến, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Quang).

Lý luận xây dựng xã hội hài hoà của Trung Quốc và công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Triết học

Trong bài viết này, tác giả đã trình bày một cách khái quát tư tưởng về sự hài hoà của một số nhà triết học, đồng thời nêu ra một số nội dung cơ bản nhất của lý luận xây dựng xã hội hài hoà của Trung Quốc. Đặc biệt, tác giả đã phân tích để làm rõ điểm tương đồng giữa lý luận xây dựng xã hội hài hoà của Trung Quốc và đường lối đổi mới của Việt Nam hiện nay trên một số khía cạnh chủ yếu: nội hàm của khái niệm hài hoà, mục tiêu chung, cơ sở lý luận,… Theo tác giả, lý luận xây dựng xã hội hài hoà của Trung Quốc có giá trị gợi mở nhất định đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam hiện nay.

Về những giá trị trong tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ

Triết học

Với nhận định rằng, các tư tưởng cải cách trong lịch sử dân tộc có những giá trị thời đại nhất định và do đó, có mối liên hệ biện chứng với sự phát triển của Việt Nam hiện nay, tác giả đã khảo cứu tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ trên 4 phương diện: 1. Tư duy chính trị mới; 2. Tư duy ngoại giao mới; 3. Tư duy văn hoá - giáo dục mới; 4. Tư duy kinh tế mới. Sau sự khảo cứu có so sánh với hiện tại đó, tác giả khẳng định những đóng góp và sức sống của những tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người, giải phóng con người trong Hệ tư tưởng Đức và sự vận dụng của Đảng ta

Triết học

Bài viết tập trung luận giải quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con người hiện thực và hoạt động của nó với tư cách đối tượng của sự suy tư triết học về con người; đồng thời làm rõ sự đánh giá của các ông về những sai lầm của Hêghen và L.Phoiơbắc khi nghiên cứu vấn đề con người. Trên cơ sở đó, phân tích quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về giải phóng con người, về con đường, phương tiện và những tiền đề vật chất cần thiết cho sự giải phóng con người.Qua đó, cho thấy sự vận dụng quan điểm này của Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước.

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách

Triết học

Bài viết tập trung phân tích nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, vai trò của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp và một số vấn đề đặt ra trong việc thực thi trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp ở Việt Nam. Theo tác giả, việc các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội không chỉ giúp bản thân doanh nghiệp phát triển bền vững, mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội. Trên cơ sở làm rõ những lợi ích to lớn từ việc thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp và đánh giá khái quát tình hình thực thi trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, tác giả đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp.

Quan niệm duy vật về lịch sử với tư cách một hệ thống lý luận khoa học trong Hệ tư tưởng Đức

Triết học

Khẳng định quan niệm duy vật về lịch sử mà C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra trong “Hệ tư tưởng Đức” là một hệ thống lý luận khoa học, tác giả bài viết đã phân tích quá trình hình thành phương pháp tư duy hệ thống ở các ông, làm rõ tiến trình xây dựng và phát triển quan niệm này của các ông với tư cách một triết học khoa học về lịch sử và mang ý nghĩa khoa học phổ biến. Đồng thời, đưa ra và luận giải quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về xã hội, về lịch sử nhân loại với tư cách một hệ thống, một chỉnh thể không ngừng vận động và phát triển; chứng minh tính hệ thống mà các ông đã xây dựng trong quan niệm duy vật về lịch sử.

Tài năng gắn với đạo đức – những phẩm chất cần có của doanh nhân Việt Nam

Triết học

Trên cơ sở trình bày tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về đức và tài cũng như mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng, trong bài viết này, tác giả đã luận chứng nhằm làm rõ rằng, tài năng gắn với đạo đức là những phẩm chất cần thiết của doanh nhân Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đòi hỏi các doanh nhân phải vừa có tài năng, vừa có đạo đức. Đó là điều kiện cơ bản để các doanh nghiệp tồn tại và phát triển.

Vai trò của con người trong sự phát triển xã hội theo định hướng bền vững

Triết học

Khẳng định con người luôn giữ vị trí trung tâm trong các quá trình kinh tế - xã hội, nhân tố con người chiếm vị trí hàng đầu trong tổng thể các nhân tố tác động đến sự phát triển xã hội, trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích vai trò của con người trong sự phát triển xã hội theo hướng bền vững trên ba phương diện: 1. Bền vững về sinh thái; 2. Bền vững về kinh tế; 3. Bền vững về xã hội.

Bảo đảm công bằng xã hội vì sự phát triển bền vững

Triết học

Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam coi công bằng xã hội là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Để có được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, cần phải xác định và thực hiện đúng nguyên tắc phân phối phù hợp như Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra. Để phát huy vai trò động lực của công bằng xã hội, theo tác giả, cần khắc phục những thiếu sót trong việc thực hiện công bằng xã hội hiện đang còn tồn tại. Công tác lý luận cần hướng vào việc nghiên cứu và giải quyết nhiệm vụ đó.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất Đảng Cộng sản Việt Nam

Triết học

Bản chất của Đảng Cộng sản là vấn đề đặc biệt quan trọng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bản chất giai cấp công nhân là “bản chất cấp 1” của Đảng Cộng sản; đồng thời, Đảng Cộng sản còn có những bản chất ở cấp độ khác, như “bản chất nhân dân lao động”, “bản chất dân tộc”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề “bản chất của Đảng” có liên quan chặt chẽ, nhưng không đồng nhất với vấn đề “Đảng của những ai”. Cần phải khẳng định rằng, giữ vững và nâng cao bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta là điều kiện tiên quyết, bảo đảm cho sự thành công của cách mạng Việt Nam trong mọi giai đoạn.

Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về nguồn gốc và bản chất của ý thức trong "Hệ tư tưởng Đức"

Triết học

Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phê phán quan niệm sai lầm của phái Hêgen trẻ và đưa ra quan niệm của mình về nguồn gốc và bản chất của ý thức. Theo các ông, ý thức là của con người, được con người sản sinh ra trong quá trình lao động. Nói cách khác, ý thức có nguồn gốc từ trong xã hội và là sản phẩm của xã hội, không phụ thuộc vào ý chí hay tư tưởng của bất kỳ cá nhân nào. Bản chất của ý thức chính là “sự tồn tại được ý thức”. Với những tư tưởng đúng đắn đó, C.Mác và Ph.Ăngghen không những khắc phục được quan điểm duy tâm, siêu hình trước đó về vấn đề nguồn gốc và bản chất của ý thức, mà còn đặt cơ sở ban đầu cho sự ra đời của một thế giới quan mới, khoa học và tiến bộ.

Tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về cách mạng vô sản và ý nghĩa của nó trong thời đại ngày nay

Triết học

Với quan niệm duy vật về lịch sử, trong “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng cơ sở lý luận vững chắc cho sự phát triển tư tưởng về cách mạng vô sản. Theo các ông, cách mạng vô sản là một quy luật tất yếu mà lịch sử phải trải qua trong tiến trình vận động, phát triển của nó. Những tiền đề vật chất của cuộc cách mạng đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hình thành giai cấp vô sản. Về tính chất, nó là cuộc cách mạng triệt để, toàn diện và sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại. Có thể khẳng định rằng, cho đến nay, những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen trong “Hệ tư tưởng Đức” về cách mạng vô sản vẫn còn nguyên giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn.

Cơ sở lý luận để tiếp cận chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Triết học

Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra năm tiêu chí để xác định bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là: giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, thủ tiêu chế độ bóc lột, xoá bỏ sự phân hoá giàu – nghèo để cuối cùng, đạt đến đích cùng nhau giàu có. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta không thể không thực hiện năm tiêu chí này trong mối quan hệ hữu cơ của chúng. Đó là kết luận mà tác giả rút ra khi luận giải mối quan hệ này trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Nghiên cứu và vận dụng học thuyết đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện hiện nay như thế nào?

Triết học

Hiện nay, ở nước ta, có một số ý kiến cho rằng, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng, cần phải bổ sung, phát triển học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo các ý kiến đó, học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin đã có thiếu sót khi coi đấu tranh là tuyệt đối, mà không coi trọng sự thống nhất. Họ quan niệm rằng, điều đó chỉ đúng trong điều kiện trước đây và chỉ là sách lược; rằng, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, không thể nói đến đấu tranh giai cấp nữa mà chỉ nên nói đến sự hòa hợp giữa các giai cấp mới xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc. Trong bài viết này, chúng tôi muốn trình bày quan niệm của mình về học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin và của Đảng ta hiện nay để bày tỏ sự không tán thành với những ý kiến trên đây.

Quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác và công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Triết học

Trên cơ sở làm rõ những nội dung căn bản trong quan niệm duy vật về lịch sử của C.Mác với tư cách học thuyết về con đường lịch sử – tự nhiên trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, trong bài viết này, tác giả đã chỉ ra và luận giải giá trị gợi mở của quan niệm này đối với con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay; đồng thời đề xuất một số quan điểm định hướng cho quá trình tiếp tục đổi mới tư duy qua thực tiễn đổi mới đất nước những năm vừa qua.

Vấn đề dân sinh trong chủ trương xây dựng xã hội hài hoà của Trung Quốc và chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam

Triết học

Bài viết đã phân tích những tư tưởng cơ bản của Tôn Trung Sơn và Hồ Chí Minh về dân sinh. Nếu Tôn Trung Sơn coi chủ nghĩa dân sinh là chủ nghĩa xã hội thì Hồ Chí Minh quan niệm mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải quyết vấn đề dân sinh, mang lại ấm no, tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Đồng thời, tác giả cũng phân tích và so sánh để chỉ ra những điểm chung, tương đồng giữa chủ trương xây dựng xã hội hài hoà của Trung Quốc và chiến lược phát triển nhanh, bền vững của Việt Nam, trong đó nổi bật là mục tiêu nâng cao chất lượng của sự phát triển và giải quyết ngày càng tốt hơn vấn đề dân sinh.

Tăng cường nghiên cứu phương thức tư duy, phát huy năng lực sáng tạo triết học

Triết học

Trên cơ sở khẳng định vai trò to lớn của phương thức tư duy đối với sự phát triển xã hội, trong bài viết này, tác giả đã phân tích mối quan hệ tương hỗ giữa phương thức tư duy và phát triển xã hội, coi đổi mới phương thức tư duy là điều kiện cần thiết để thúc đẩy xã hội phát triển. Theo tác giả, hiện nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng như những mặt trái giữa thực tiễn sản xuất và thực tiễn khoa học đặt ra nhu cầu bức thiết phải đổi mới phương thức tư duy. Tuy nhiên, sự tối ưu hoá phương thức tư duy nhất thiết phải là một quá trình.

Về tính khách quan và tính năng động của thực tiễn

Triết học

Bài viết luận chứng để làm rõ tính khách quan và tính năng động của hoạt động thực tiễn – một vấn đề không chỉ cần thiết về mặt lý luận, mà còn có giá trị thực tiễn. Theo tác giả, hoạt động thực tiễn của con người vừa mang tính khách quan, vừa mang tính năng động. Tính khách quan và tính năng động của hoạt động thực tiễn luôn thống nhất biện chứng với nhau.

Luận điểm khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của C.Mác và vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay

Triết học

Về luận điểm khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của C.Mác, tác giả đã đưa ra và luận giải những điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và những biểu hiện của quá trình này. Vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay đã được tác giả luận giải trên cơ sở làm rõ nội dung khái niệm, bản chất và những đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức; đồng thời, chỉ ra những điều kiện thiết yếu cho việc hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.