Danh sách bài viết

Vị đại sư sáng lập Tịnh độ tông

Cập nhật: 28/12/2017

Bằng Hư

 

Là người được đào luyện Nho, Lão, Trang từ khi tóc còn để chỏm rồi trở thành người thông thạo cả lục kinh, nắm rõ cả Lão Đam lẫn Trang Chu thế nhưng chỉ ít lâu sau đó, chàng thanh niên xuất chúng họ Giả khăng khăng đòi xuất gia làm sư và nói rằng: “So với đạo Phật, học thuyết Khổng Mạnh, Lão, Trang chỉ như tro tàn, cặn bã”…

Chàng thanh niên họ Giả đó sau này chính là người sáng lập nên phái Tịnh độ tông, một trong những tông phái Phật giáo còn phổ biến nhất tại Trung Quốc cho đến thời hiện tại – Đại sư Huệ Viễn.

Vị đại sư sáng lập phái Tịnh độ tông

Sư Huệ Viễn sinh năm 334 mất năm 416, vốn là người họ Giả, vốn quê ở Lâu Phiền, Nhạn Môn, nay thuộc Ninh Vũ, tỉnh Sơn Tây. Ngay từ nhỏ, Huệ Viễn đã tỏ ra là người thông minh, hiếu học vì vậy, khi mới 13, Huệ Viễn đã được cha đưa đến các vùng Hứa Xương, Lạc Dương du học. Mặc dù lúc bấy giờ, thời thế nhiễu nhương không yên ổn nhưng tư tưởng, học thuyết các nhà đã được truyền bá rộng rãi và rất có quy củ. Vốn thông minh lại hiếu học, nên chỉ ít năm sau đó, Huệ Viễn đã thông thạo cả lục kinh, nắm rõ cả học thuyết của Lão, Trang cùng trăm nhà. Danh tiếng Huệ Viễn cũng vì thế mà nổi tiếng khắp vùng.

Năm Huệ Viễn 21 tuổi, cảm thấy các học thuyết sở đắc của mình không thể giải quyết được những vấn đề về sống chết luân hồi mà trong tâm hằng thao thức, Huệ Viên đã dự định cùng với một người bạn là Phạm Tuyên Tử đi ngao du tìm đạo. Tuy nhiên, thời bấy giờ chiến tranh liên miên, lại thêm đường xá khó khăn nên Huệ Viễn đành phải gác lại ý định này. 

Một thời gian sau đó, có vị sư tên là Đạo An đến chùa Nghiệp Trung núi Thái Hành thuộc dãy Hằng Sơn thuyết pháp. Rất nhiều trí thức, vua quan cho tới dân thường nghe tiếng đều tìm về nghe vị sư này giảng giải kinh điển nhà Phật. Huệ Viễn cũng theo dòng người mộ đạo tìm đến chùa Nghiệp Trung. Sau khi đến đỉnh Thái Hành, gặp đúng lúc sư Đạo An đang giải giải cho chúng tăng về “Kinh Bát Nhã”, Huệ Viễn nghe Đạo An giảng xong, thông suốt ngay, thấy đạo Phật cao diệu, mới ngửa mặt lên trời than rằng: “Đạo Phật thật bao la, so với nó, Nho Đạo các nhà chẳng khác nào như tro tàn, cặn bã”. Từ đó, Huệ Viễn quyết tâm bỏ hết sở học, xuất gia làm sư, bái Đạo An làm thầy.

Sau khi xuất gia, Huệ Viễn chuyên tâm sớm hôm tụng đọc kinh Phật, không hề ngại khó, ngại khổ. Với bản chất thông minh, lại từng là người thông hiểu tư tưởng Nho, Đạo trăm nhà, Huệ Viễn không chỉ thấu hiểu rất nhanh giáo lý nhà Phật mà còn tự tìm cho mình cách lý giải riêng. Vì vậy, mới 24 tuổi Huệ Viễn đã lập đàn giảng kinh thuyết pháp. Mỗi lần giảng đến đoạn nào các đệ tử không hiểu, Huệ Viễn lại sử dụng những tư tưởng Lão Trang hay Nho giáo để liên hệ so sánh giúp người nghe dễ dàng thông hiểu. Vì vậy, lúc bấy giờ, các buổi giảng kinh của Huệ Viễn thu hút rất đông các tăng chúng khắp nơi về nghe. Thấy đệ tử của mình không chỉ thông minh lanh lợi mà còn tự có cách lý giải riêng, Đạo An mừng lắm, ngầm khen ngợi Huệ Viễn rằng: “Đạo Phật sau này có được lưu truyền rộng rãi trên đất Trung Quốc có lẽ là nhờ Huệ Viễn này đây”. 

Sau nhiều năm theo thầy tu hành, đến một hôm, Đạo An bắt đầu cho các đệ tử của mình tự đi truyền bá Phật pháp. Mỗi khi có một đệ tử nào đó quyết định ra đi, Đạo An cũng ân cần chỉ bảo những điểm cần phải ghi nhớ. Nhưng đến khi Huệ Viễn ra đi thì Đạo An không nói gì cả. Huệ Viễn tự nhiên cảm thấy tủi thân vì tự nghĩ bản thân mình từ khi theo thầy đã rất chăm chỉ không hề quản ngại điều gì, tu tâm học Phật nhưng khi dời đi thì thầy không hề nhắn nhủ như những đệ tử khác, lẽ nào thầy xem mình không xứng đáng được chỉ bảo? Huệ Viễn băn khoăn lắm, cuối cùng quỳ xuống trước mặt Đạo An nói rằng: “Đệ tử đợi mãi mà không nghe thầy nhắn nhủ điều gì cả… phải chăng đệ tử chẳng đủ khả năng để được thầy giao phó?”. 

Đạo An lúc này mới mỉm cười đáp rằng: “Người như thầy đây thì lão tăng còn gì để lo lắng nữa… Ta cũng không còn gì để nói cho thầy! Từ nay về sau nhất định thầy sẽ làm rạng rỡ Phật pháp. Thôi! Thầy hãy đi đi, rất nhiều Phật sự đang chờ thầy hoàn thành”.

Chia tay Đạo An ở Tương Dương, Huệ Viễn đi về hướng nam đến Kinh Châu và dừng chân tại chùa Thượng Minh. Kế đó, ngài lại muốn dời đến núi La Phù nhưng khi đi qua Lô Sơn, thuộc tỉnh Giang Tây thấy cảnh vật núi này thanh tịnh rất thích hợp cho việc hành đạo của mình, nên quyết định ở lại, xây dựng tịnh xá Long Tuyền. Người ta kể rằng, khi Huệ Viễn mới đến Lô Sơn, thấy chỗ đó thiếu nước mới cầm tích trượng dằn xuống đất khấn nguyện. Bỗng nhiên, một con rồng trắng bay vọt lên, rồi chỉ một lát sau, mưa to xối xả ba ngày ba đêm không dứt, hình thành những con sông uốn lượn trong khu vực này. Cũng vì thế, Huệ Viễn mới đặt tên cho tịnh xá của mình là Long Tuyền (Suối con rồng). 

Huệ Viễn ở Lô Sơn suốt 30 năm, chân không dời khỏi núi. Tuy nhiên, tăng chúng và những người mộ đạo thì từ khắp nơi tìm về Lô Sơn để nghe Huệ Viễn thuyết pháp ngày càng đông hơn. Chính nhờ Huệ Viễn mà chùa Đông Lâm ở Lô Sơn trở thành trung tâm Phật giáo lớn nhất ở phía nam của Trung Quốc. Đến năm Thái Nguyên thứ 15 nhà  Đông Tấn, tức năm 390, Huệ Viễn cùng các đệ tử và người mộ đạo lập ra Bạch Liên Xã, lấy thành khẩn tu cầu làm tiêu chí và phương tiện để về cõi Niết Bàn Tịnh Độ. Chính Bạch Liên Xã với 123 người ban đầu do Huệ Viễn lập ra sau này đã trở thành phái Tịnh độ tông rất phổ biến ở Trung Quốc.

Và chuyến thỉnh kinh trước Đường Tam Tạng

Lâu nay, người ta chỉ nhắc đến Đường Tam Tạng một nhân vật rất nổi tiếng với bộ tiểu thuyết lừng danh “Tây Du Ký” với chuyến thỉnh kinh ở Thiên Trúc như một sự kiện trọng đại trong quá trình truyền bá và chuyển dịch kinh điển Phật giáo vào Trung Quốc. Tuy nhiên, ít người biết rằng, trước Đường Tam Tạng hàng nhiều thế kỷ, chính sư Huệ Viễn đã tổ chức những chuyến “thỉnh kinh” và chuyển dịch kinh điển Phật giáo với quy mô rất lớn.

Chuyện kể rằng, khi ở Lô Sơn, sư Huệ Viễn thấy ở phương Đông Phật pháp phát triển rất nhanh song kinh sách thì lại rất thiếu. Những bộ kinh sách được các nhà sư Ấn Độ mang vào Trung Quốc thường không đầy đủ và đã được dịch ra ngôn ngữ của người Trung Quốc để tiện cho việc truyền giáo vì vậy thường không chính xác. Nhiều chuyến thỉnh kinh của các nhà sư từ Trung Quốc trước đó cũng không đem lại nhiều kết quả vì đường xá xa xôi, cách trở, ngôn ngữ lại bất đồng.

Huệ Viễn nghĩ rằng, nếu như muốn truyền bá đạo Phật thì nhất định phải có những bộ kinh sách được dịch một cách đầy đủ và chính xác. Vì vậy, ông đã bàn với những người đệ tử của mình tổ chức một chuyến “tây du” để “thỉnh kinh”. Cuối cùng, Huệ Viễn sai các đệ tử là Pháp Tịnh và Pháp Lĩnh cùng nhiều người khác vượt ngọn núi Thông Lãnh cao ngất sang đất Tây Thiên lấy về những bộ kinh nguyên bản bằng tiếng Phạn. Sư Huệ Viễn lúc đó cũng muốn tự mình sang Thiên Trúc cùng với các đệ tử, tuy nhiên, vì tuổi đã cao, đường xá lại quá xa xôi và nguy hiểm nên Huệ Viễn đành giao trọng trách này cho hai người đệ tử thân tín nhất của mình. Trải nhiều năm vượt suối băng ngàn, dãi nắng dầm sương, chịu đủ mọi nỗi khó khăn trở ngại, đoàn thỉnh kinh từ chùa Đông Lâm của Bạch Liên Xã cũng đã trở về mang theo một số lượng lớn những sách kinh điển từ quê hướng đức Phật.

Tuy nhiên, khi đã có được những kinh sách nhà Phật thì một vấn đề khác lại nảy sinh, đó là tất cả những kinh sách này đều bằng tiếng Phạn vậy ai sẽ là người có thể dịch được những kinh sách này một cách chính xác nhất. Bản thân Huệ Viễn khong phải là một người thạo tiếng Phạn, hơn nữa, Huệ Viễn cho rằng, những người có thể dịch kinh sách Phật giáo chính xác nhất chính là những nhà sư Ấn Độ đến Trung Quốc truyền giáo. Chính vì vậy, Huệ Viễn không quản khó nhọc tìm kiếm khắp nơi trên cả nước để mời các đại sư Ấn Độ về Đài Bát Nhã tại Lô Sơn mà ông lập ra để tổ chức biên dịch kinh sách nhà Phật. Đây cũng là trung tâm dịch thuật tư nhân đầu tiên trong lịch sử.

Chuyện kể rằng, khi nghe tin một vị đại sư của Ấn Độ đến Trung Nguyên, từ tận vùng Lô Sơn xa xôi nhưng Huệ Viễn đã tức tốc sai đệ tử của mình là Đàm Ung vượt đèo lội suối đến Trường An để tìm vị đại sư nọ. Bản thân Huệ Viễn còn viết một lá thư dài khẩn thiết nhờ vị đại sư này đến Lô Sơn giúp mình dịch kinh sách nhà Phật nhằm truyền bá Phật pháp cho các thế hệ sau. Chính nhờ sự nhiệt tình và hết lòng cho sự nghiệp xiển dương Phật pháp, Huệ Viễn đã lấy được lòng rất nhiều các đại sư đến từ Ấn Độ cũng như những người Trung Nguyên từng đến Trung Quốc và biết tiếng Phạn. Công lao của Huệ Viễn đối với sự nghiệp phiên dịch và truyền bá các kinh sách Phật giáo vì vậy không hề kém so với công lao của Đường Tam Tạng sau này.

Năm sư Huệ Viễn 83 tuổi, ông bị bệnh nặng và qua đời. Người ta khoác lên cái chết của Huệ Viễn nhiều lớp vỏ thần kỳ, nói rằng, ông đã trông thấy đức Phật trước khi viên tịch. Đức Phật nói với ông rằng: “Sau bảy ngày nữa ngươi sẽ được sinh về nơi cực lạc”. Đúng bảy ngày sau đó, Huệ Viễn qua đời. Chẳng biết chuyện này đúng sai ra sao nhưng có một điều chắc chắn rằng, nó chứng tỏ Huệ Viễn có một sức ảnh hưởng vô cùng lớn đối với các tín đồ của Phật giáo.

Nguồn: / 0

Một số vấn đề tư tưởng vua Trần Nhân Tông (P.2)

Tôn giáo

Sự hưng thịnh của Phật giáo cho đến cuối thế kỷ thứ 14, khi nhà Trần đã suy vong, chắc chắn đã xuất phát từ hệ tư tưởng Cư trần lạc đạo vừa nói. Phật giáo không dành riêng cho một bộ phận những người tu hành, cũng chẳng phải riêng một bộ phận quý tộc...

Tìm hiểu đường lối thực hành Thiền phái Trúc Lâm

Tôn giáo

Trước nhất muốn xác định cách tu tập của dòng thiền Trúc Lâm, thì chúng ta ngược dòng lịch sử để dẫn chứng.

Một số vấn đề tư tưởng vua Trần Nhân Tông (P.1)

Tôn giáo

Vua Trần Nhân Tông đã sống cuộc đời oanh liệt và hoành tráng, có những đóng góp to lớn và thiết thực cho dân tộc và Phật giáo. Thế thì, vua đã sống và hành động theo hướng nào, dưới sự tác động của những suy nghĩ tư tưởng gì?

Phật giáo thời Lý và những ảnh hưởng trong đời sống tinh thần ở làng xã

Tôn giáo

Giáo lý Phật giáo đồng nhất bản chất của thế giới vật chất với bản thể con người, do đó, Phật giáo thời Lý có chung một phương pháp khi xem xét con người và xem xét vũ trụ: sự vận động của vũ trụ phải nằm trong trạng thái cân bằng, và vận động của tư...

Thiền Sư Pháp Loa và Pháp Chỉ thẳng

Tôn giáo

Thiền sư Pháp Loa dạy: "Mọi người nếu hướng vào Đệ nhất nghĩa mà nói thì suy nghĩ là sai, mở miệng là lầm. Vậy thì làm sao sinh Đế, làm sao sinh Quán? Nay thử căn cứ vào đầu Đệ nhị mà nói thì cũng chẳng được sao?". Nói về pháp dạy người, thật sự đối...

Những yếu điểm của tư tưởng duy thức (P.2)

Tôn giáo

Vấn đề nhân quả là vấn đề trọng yếu trong tư tưởng Phật giáo và có nhiều người đã giải thích ý nghĩa nhân quả rất tường tận, nhưng đứng về phương diện tư tưởng trong số đó có một ít người giải thích không đúng giá trị của nhân quả. Tư tưởng nhân quả...

Những yếu điểm của tư tưởng duy thức (P.1)

Tôn giáo

Duy thức học là môn học về tâm bắt đầu từ nơi thức, nguyên do tâm chính là bản thể của thức và thức thì được phát sinh từ nơi tâm thể. Tâm thể nếu như không có thì nhất định không có thức và thức thì thuộc về sự tác dụng của tâm thể nên gọi là tâm...

Cõi âm có hay không? Nhận thức của Phật giáo đối với vấn đề này

Tôn giáo

Tôi không thể tin là có một cõi sống đặc biệt dành riêng cho những người đã chết. Nghĩa là có các cõi sống khác nhau, nhưng không có một cõi nào của người đã chết cả. Không thể có cõi sống dành cho những người chết, đó là một mâu thuẫn ngay trong bản...

Giá trị của Khoa học & Quan trọng của Phật giáo (P.4)

Tôn giáo

Điều tối quan trọng, Phật giáo không vì kiến thức văn minh rực rữ của khoa học mà bắc quàng làm sang. Hiển nhiên, khoa học chưa đủ khả năng để chứng minh Phật giáo. Ngược lại, Phật giáo dư trí tuệ để giải thích khoa học bởi vì...

Những đặc điểm của văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam

Tôn giáo

Trong cộng đồng nhân loại, bất cứ chủng tộc nào, có tinh thần độc lập, có ý chí tự cường, có lịch sử đấu tranh lâu dài thì chủng tộc đó nhất định có sáng tạo văn hóa để thích ứng với mọi hoàn cảnh địa lý, với những điều kiện thực tế để tự cường, sinh...