Danh sách bài viết

Vũ trụ đã lớn đến nhường nào?

Cập nhật: 17/02/2019

Để tính toán phép tính lớn, chính xác ở quy mô thiên hà hay vũ trụ, người ta cần một hằng số chính xác để làm mốc. Có thể nói, hằng số Hubble cũng như số Pi đối với hình tròn.

Những ai tìm hiểu về thiên văn đều biết vũ trụ luôn giãn nở. Nhưng tốc độ giãn nở như thế nào thì ngay cả các khoa học gia lỗi lạc nhất cũng chưa dám khẳng định chính xác.

Người ta đặt tên cho độ giãn nở của vũ trụ là Hằng số Hubble. Các phép đo đạc hiện đại vẫn chưa thể đi đến kết luận giá trị hằng số này, bởi cứ mỗi phép đo khác nhau lại cho một giá trị khác nhau.

Ảnh minh họa Quasar ULAS J1120+0641 có năng lượng từ một hố đen lớn gấp 2 tỷ lần mặt trời.
Ảnh minh họa Quasar ULAS J1120+0641 có năng lượng từ một hố đen lớn gấp 2 tỷ lần mặt trời. (Ảnh: ESO).

Hằng số Hubble để làm gì?

Từ lâu, có 2 thuyết giải thích cho sự tồn tại của vũ trụ: Một là nó đã có sẵn ở đó, hai là nó bắt đầu từ một điểm. Giả thuyết đầu bị bác bỏ vào cuối 1960, khi người ta khẳng định vụ nổ Big bang đã khai sinh ra vũ trụ.

Ngay từ 1920, nhà khoa học Edwin Hubble đã chú ý đến những câu hỏi xoay quanh sự kiện Big bang. Vụ nổ này xảy ra đã bao lâu? Vũ trụ này đã lớn như thế nào?

Sử dụng những công nghệ giống như súng radar ngày nay, Hubble biết rằng các thiên hà không chỉ di chuyển ra xa Trái đất, mà còn ra xa nhau. Mối liên hệ giữa vận tốc di chuyển của các thiên hà và khoảng cách chúng với Trái đất được thể hiện thông qua hằng số Hubble.

Nhờ có hằng số Hubble, người ta đã trả lời được câu hỏi đầu tiên ở trên. Vụ nổ Big bang đã xảy ra cách đây khoảng 13,7 tỷ năm.

Phép đo tốc độ giãn nở của vũ trụ

Ý tưởng cơ bản của phép đo tốc độ giãn nở vũ trụ hay giá trị của hằng số Hubble, chính là việc quan sát các nguồn sáng từ rất xa. Cụ thể, đó là từ các vụ nổ siêu tân tinh (vụ nổ chấm dứt sự sống của một ngôi sao) hoặc các chuẩn tinh (Quasar - thiên thể cực xa, cực sáng với dịch chuyển đỏ đặc trưng). Các nguồn sáng này đủ mạnh và đủ xa để các nhà khoa học đo được cường độ dịch chuyển đỏ (red-shift) của ánh sáng từ chúng.

Hiện tượng dịch chuyển đỏ là ánh sáng một vật thể khi đi ra xa khỏi người nhìn có xu hướng chuyển sang bước sóng màu đỏ, do hiệu ứng Doppler giữa 2 nguồn sóng ánh sáng di động. Chuyển dịch đỏ càng lớn vật thể di chuyển ra xa càng nhanh. Do đó, nếu đo được con số chính xác, ta sẽ tính được tốc độ giãn nở của vũ trụ.

Tốc độ giãn nở của vũ trụ được tính theo đơn vị Kilomet/Giây/Megaparsec (kps/Mpc), kí hiệu là (km/s)/Mpc. Đơn vị này được hiểu đơn giản: Giả sử có một không gian nào đó đang mở rộng ra với tốc độ 10 (km/s)/Mpc, điều này có nghĩa 2 điểm trong không gian đó cách nhau 1 megaparsec (3,26 triệu năm ánh sáng), và đi ra xa nhau thêm 10 kilomet mỗi giây.

Khi lần đầu tiên phát hiện vũ trụ đang giãn nở vào năm 1920, các nhà khoa học ước lượng tốc độ giãn nở là 625 kps/Mpc. Nhưng từ thập niên 50, các phép đo chính xác hơn cho thấy tốc độ này chưa tới 100 kps/Mpc. Vài thập kỉ gần đây, nhiều nghiên cứu cho rằng tốc độ giãn nở vũ trụ vào khoảng 76-77 kps/Mpc.

Tuy nhiên, kết quả phải là một số chính xác chứ không thể là một chuỗi số. Con số này rất quan trọng bởi nó là mốc chuẩn cho các tỷ lệ vật lý khác trong vũ trụ. Không có con số chính xác, các nhà thiên văn không thể đo đạc kích cỡ các thiên hà, hoặc lịch sử giãn nở của vũ trụ.

Mọi phát kiến vật lý và khoa học mà chúng ta có ở Trái đất quy mô vô cùng nhỏ. Để tính toán những phép tính lớn hơn, chính xác hơn ở quy mô thiên hà hay vũ trụ, người ta cần một hằng số chính xác để làm mốc. Có thể so sánh hằng số Hubble đối với vũ trụ cũng như hằng số Pi đối với đường tròn.

Tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây có thể sẽ giải quyết khúc mắc đó bằng việc quan sát các chuẩn tinh và thấu kính trọng lực trong vũ trụ.

Các thấu kính trọng lực trong vũ trụ

Gravitational lens - tạm dịch là thấu kính trọng lực thực chất không phải là vật thể như thấu kính quang học của máy ảnh, mà là một hiện tượng.

Các thiên hà hoặc hố đen thường có khối lượng vô cùng lớn, tới nỗi bất kì ánh sáng nào đi qua chúng cũng bị bẻ cong. Đó chính là hiện tượng thấu kính trọng lực. Khác với thấu kính quang học, ánh sáng bị bẻ cong mạnh nhất ở tâm trọng lực, yếu dần khi ra tới rìa hố đen hoặc thiên hà (thấu kính quang học không bẻ cong ánh sáng chiếu trực tiếp một góc 90 độ qua nó mà bẻ cong ánh sáng ở phần rìa thấu kính).

Như vậy, bất kì ánh sáng nào của các chuẩn tinh xa xôi hoặc vụ nổ siêu tân tinh đến với Trái đất phải vượt qua một hố đen hoặc thiên hà, chúng sẽ bị hiện tượng thấu kính trọng lực bẻ cong đường đi.

Kính Hubble ghi nhận một thiên hà đỏ đang bẻ cong ánh sáng một thiên hà xanh ở xa hơn rất nhiều.
Kính Hubble ghi nhận một thiên hà đỏ đang bẻ cong ánh sáng một thiên hà xanh ở xa hơn rất nhiều. Đây là hiện tượng thấu kính trọng lực. (Nguồn: ESA).

Chuẩn tinh (quasar) và các mốc của vũ trụ

Các chuẩn tinh là thiên thể cực xa và cực sáng, với dịch chuyển đỏ (red-shirt) rất lớn đặc trưng. Trong phần ánh sáng thấy được, chuẩn tinh trông giống một ngôi sao bình thường, một nguồn phát sáng điểm. Thực tế, đó là ánh sáng phát ra từ các quầng (halo) vật chất đặc, nằm quanh vùng nhân của các thiên hà hoạt động (thiên hà trẻ), thường là các hố đen siêu lớn.

Bởi các chuẩn tinh quá sáng, chúng dễ dàng được nhìn thấy từ một khoảng cách rất xa và trở thành nhóm vật thể được nghiên cứu hàng đầu. Nghiên cứu mới nhất cho thấy chúng có thể là đầu mối để tính toán được hằng số Hubble khi kết hợp với hiện tượng thấu kính trọng lực.

Các nhà khoa học đã tìm thấy đầu mối ở một quasar đôi. Một quasar đôi không phải là 2 quasar ở gần nhau như một ngôi sao đôi hay thiên hà đôi. Nó là hình ảnh một quasar duy nhất có ánh sáng bị thấu kính trọng lực bẻ cong và đi theo 2 đường để đến Trái đất.

Việc nghiên cứu 2 hình ảnh của cùng một quasar cho thấy chúng có độ trễ mỗi khi quasar mẹ chớp sáng. Bằng cách đo thời gian trễ giữa 2 lần, kết hợp với khối lượng đã biết của thiên hà thấu kính, các nhà khoa học tính được khoảng cách từ Trái đất đến thiên hà thấu kính và quasar. Biết được dịch chuyển đỏ của cả thiên hà lẫn quasar cho phép các nhà khoa học tính được tốc độ giãn nở của vũ trụ.

Sau nhiều năm quan sát quasar đôi SDSS J1206+4332, kết hợp hàng tá số liệu từ kính Hubble cùng mạng lưới quan sát thấu kính trọng lực không gian COSMOGRAIL, các nhà khoa học tính được thời gian trễ giữa 2 lần chớp sáng của quasar, cho ra một phép tính hằng số Hubble chính xác nhất từ trước đến nay.

“Cái hay của phép đo này là nó độc lập với các phép đo trước đây”, giáo sưu Tommasso Treu, tác giả nghiên cứu cho biết.

Thiên hà thấu kính được đánh dấu G0 trong ảnh. A và B là hình ảnh của quasar đôi SDSS J1206+4332. G2 là thiên hà là sinh ba.
Thiên hà thấu kính được đánh dấu G0 trong ảnh. A và B là hình ảnh của quasar đôi SDSS J1206+4332. G2 là thiên hà là sinh ba. G3 và G4 là các thiên hà gần đó. (Ảnh: Hubble Space Telescope).

Nhóm nghiên cứu kết luận rằng giá trị của hằng số Hubble là 72,5 kps/Mpc. Kết quả này khớp với các phép đo sử dụng từ những vụ nổ siêu tân tinh, song lại cao hơn 7% so với phép đo sử dụng bức xạ phông vi sóng vũ trụ (bức xạ điện từ được sinh ra từ thời kỳ sơ khai của vũ trụ, khoảng 380.000 năm sau vụ nổ Big Bang).

Mọi chuyện vẫn chưa thể chấm dứt, bởi nếu còn bất kỳ sai số giữa các phương pháp đo khác nhau cho cùng một hằng số, thì độ lớn vũ trụ vẫn chưa được "giải quyết".Thậm chí, cả 3 phép đo đều có thể đã sai hết. Nhóm nghiên cứu dự định sẽ tìm kiếm các quasar ở xa hơn nữa để có thể cho ra phép đo chính xác hơn hằng số giãn nở của vũ trụ.

Theo Zing

Nguồn: / 0

Dùng AI để tạo ra các loại bia có hương vị hấp dẫn hơn

Các ngành công nghệ

Trí tuệ nhân tạo (AI) đang ngày càng đóng vai trò quan trọng, hỗ trợ cho con người trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Giờ đây, các nhà khoa học đang muốn nhờ AI để giúp tạo ra những loại bia ngon hơn.

Trung Quốc tiến gần hơn chip lượng tử nhờ tạo ra nguồn sáng mới

Các ngành công nghệ

Các nhà nghiên cứu Trung Quốc sử dụng loại chất bán dẫn thông thường để tạo ra nguồn sáng lượng tử - thành phần quan trọng để chế tạo chip lượng tử.

Robot thụ phấn 6 tay hoạt động trong nhà kính

Các ngành công nghệ

Nhờ có 6 cánh tay, robot Stickbug có thể thụ phấn cho nhiều bông hoa cùng lúc với tốc độ 1,5 lần thụ phấn mỗi phút.

Tốc độ 6G trong thử nghiệm mới - nhanh hơn 500 lần so với 5G

Các ngành công nghệ

Một tập đoàn gồm các công ty ở Nhật Bản đã chế tạo thiết bị không dây 6G tốc độ cao đầu tiên trên thế giới.

Robot hình người đa năng tự phát triển đầu tiên của Trung Quốc

Các ngành công nghệ

Robot hình người Tiangong cao 1,63 m và nặng 43 kg trình làng tại Khu phát triển kinh tế - công nghệ Bắc Kinh hôm 27/4.

Tạo ra quần áo, túi xách có thể sạc điện thoại

Các ngành công nghệ

Các nhà khoa học Trung Quốc vừa giới thiệu loại túi xách và vải có thể sạc điện thoại vô cùng tiện lợi.

AI phát hiện 3 bệnh ung thư nguy hiểm chỉ với một giọt máu khô

Các ngành công nghệ

Một công cụ mới, với sự trợ giúp của trí tuệ nhân tạo (AI), có thể phát hiện 3 loại ung thư nguy hiểm nhất trong vòng vài phút, chỉ cần một giọt máu khô.

Các nhà khoa học Hàn Quốc phát triển phương pháp sản xuất nhanh kim cương trong 150 phút

Các ngành công nghệ

Các nhà khoa học phát triển quy trình sản xuất kim cương nhân tạo với kim loại lỏng ở mức nhiệt khoảng 1.000 độ C và áp suất thấp.

Thiết bị sản xuất điện nhiệt hạch đạt nhiệt độ 37 triệu độ C

Các ngành công nghệ

FuZe là thiết bị nhỏ giá rẻ có thể đạt nhiệt độ năng lượng nhiệt hạch nhanh chóng và đáp ứng nhu cầu điện của con người trong tương lai.

Google Maps sắp có tính năng mới siêu hữu ích, không còn lo đi lạc dù đi vào vùng mất sóng

Các ngành công nghệ

Với tính năng mới này, người dùng sẽ luôn biết vị trí của mình, không cần lo sợ đi lạc khi mất mạng di động hay đi vào những vùng mất sóng.