Cờ tướng

Cờ tướng (chữ Hán gọi là 象棋, phiên âm Hán Việt là tượng kỳ tức "cờ hình tượng"), hay còn gọi là cờ Trung Hoa(Tiếng Anh: Chinese Chess) , là một trò chơi trí tuệ dành cho hai người. Đây là loại cờ phổ biến nhất tại Trung Quốc, và nằm trong cùng một thể loại cờ với cờ vuashogijanggi.

Trò chơi này mô phỏng cuộc chiến giữa hai quốc gia, với mục tiêu tối hậu là bắt được Tướng của đối phương. Các đặc điểm khác biệt của cờ tướng so với các trò chơi cùng họ là: các quân đặt ở giao điểm các đường thay vì đặt vào ô, quân Pháo phải nhảy qua 1 quân khi ăn quân, các khái niệm sông/hà và cung tướng nhằm giới hạn các quân Tốt, Sĩ và Tượng.

Giới thiệu

- Mục đích của ván cờ

Ván cờ được tiến hành giữa hai người, một người cầm quân Trắng (hay Đỏ), một người cầm quân Đen (hay Xanh lục). Mục đích của mỗi người là tìm mọi cách đi quân trên bàn cờ theo đúng luật để chiếu bí hay bắt Tướng (hay Soái/Suý) của đối phương.

- Bàn cờ và quân cờ

 

Tướng, Sĩ và Cửu cung

Bàn cờ là một hình chữ nhật do 9 đường dọc và 10 đường ngang cắt nhau vuông góc tại 90 điểm hợp thành. Một khoảng trống gọi là sông (hay hà) nằm ngang giữa bàn cờ, chia bàn cờ thành hai phần đối xứng bằng nhau. Mỗi bên có một cung Tướng hình vuông (Cửu cung) do 4 ô hợp thành tại các đường dọc 4, 5, 6 kể từ đường ngang cuối của mỗi bên, trong 4 ô này có vẽ hai đường chéo xuyên qua.

Theo quy ước, khi bàn cờ được quan sát chính diện, phía dưới sẽ là quân Trắng (hoặc Đỏ), phía trên sẽ là quân Đen (hoặc Xanh lục). Các đường dọc bên Trắng (Đỏ) được đánh số từ 1 đến 9 từ phải qua trái. Các đường dọc bên Đen (Xanh lục) được đánh số từ 9 tới 1 từ phải qua trái.

Mỗi ván cờ lúc bắt đầu phải có đủ 32 quân, chia đều cho mỗi bên gồm 16 quân Trắng (Đỏ) và 16 quân Đen (Xanh lục), gồm bảy loại quân. Tuy tên quân cờ của mỗi bên có thể viết khác nhau (ký hiệu theo chữ Hán) nhưng giá trị và cách đi quân của chúng lại giống nhau hoàn toàn. Bảy loại quân có ký hiệu và số lượng cho mỗi bên như sau:

Quân Ký hiệu Số lượng
Tướng Tướng(hoặc Soái) 1
Sĩ 2
Tượng Tượng 2
Xe Xe 2
Pháo Pháo 2
Mã 2
Tốt Tốt (hoặc Binh) 5

Lịch sử

 

Các quân cờ

Đây loại cờ có từ khoảng thế kỷ 7. Cờ tướng được bắt nguồn từ Saturanga, một loại cờ cổ được phát minh ở Ấn Độ từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 6(trước cờ tướng khoảng 200 năm). Chính Saturanga được phát minh từ Ấn Độ, sau đó đi về phía tây, trở thành cờ vua và đi về phía Đông trở thành cờ tướng. Người Trung Quốc cũng đã thừa nhận điều này.

Cờ tướng cổ đại không có quân Pháo. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất là quân Pháo được bổ sung từ thời nhà Đường (sau năm 618), là quân cờ ra đời muộn nhất trong bàn cờ tướng, bởi cho tới thời đó, con người mới tìm ra vũ khí pháo để sử dụng trong chiến tranh.

Tuy nhiên, người Trung Hoa đã cải tiến bàn cờ Saturanga như sau:

Xuất xứ tên gọi

Người Trung Hoa đặt tên cho cờ này là Tượng kỳ (象棋) với ý nghĩa cờ hình tượng (theo chữ Hán) chứ không phải vì có quân tượng (voi) trên bàn cờ. Cũng có một số tài liệu lý giải rằng, vì Trung Hoa không có voi, khi tiếp nhận Saturanga thấy trong các quan có quân voi lạ nên người Trung Hoa bèn gọi là "tượng kỳ" để kỷ niệm một loại cờ lạ có con voi. Như thế có người suy ra "tượng kỳ" có nghĩa là cờ voi.

Tại Việt Nam thì từ xưa tới nay vẫn gọi là cờ tướng do trong bàn cờ quân Tướng là quan trọng nhất.

Nguyên tắc chơi

 
Chơi cờ tại  Seattle, Hoa Kỳ
 
Một thanh niên Việt chơi cờ tướng trên một bàn cờ khổng lồ tại hội chợ  Tết ở  Orange County, California, Hoa Kỳ
Bài chi tiết: Luật cờ tướng

Các quân cờ

Tướng (Soái)

 
Tướng (hay Soái)

Tướng chỉ được đi ngang hay đi dọc từng bước một trong phạm vi cung tướng.Tính theo khả năng chiến đấu thì Tướng là quân yếu nhất do chỉ đi nước một và bị giới hạn trong cung. Tuy nhiên trong nhiều tình huống, đặc biệt khi cờ tàn đòn "lộ mặt tướng" (xem ở dưới) lại tỏ ra rất mạnh.

Tướng được chốt chặt trong cung và có tới 2 Sĩ và Tượng canh gác hai bên. Chính điều này làm cho ván cờ trở nên khó phân thắng bại, cơ may hoà cờ là rất lớn. Từ một thực tế như vậy, luật "lộ mặt Tướng" được thiết lập: nước đi mà một bên Tướng đã chiếm được một lộ rồi mà Tướng bên kia có mặt ra lộ ấy mà không có quân nào che chắn ở giữa là không hợp lệ. Việc này làm cờ tướng có nhiều biến hóa thắng bại.

 

Trong cờ tướng, quân Sĩ có vai trò "hộ giá" cho Tướng. Chúng đứng ngay sát cạnh Tướng, chỉ đi từng bước một và đi theo đường chéo trong Cửu cung. Như vậy, chúng chỉ di chuyển và đứng tại 5 điểm và được coi là quân cờ yếu nhất. Sĩ có chức năng trong việc bảo vệ Tướng, mất Sĩ được cho là nguy hiểm khi đối phương còn đủ 2 Xe hoặc dùng Xe Mã Tốt tấn công. Bỏ Pháo ăn Sĩ rồi dùng 2 Xe tấn công là đòn chiến thuật thường thấy. Khi còn Pháo thì phải chú ý giữ Sĩ để làm ngòi cho Pháo tấn công.

Tượng (Tịnh)

 
Tượng

Quân Tượng đứng bên cạnh quân Sĩ và tương đương với Tượng trong cờ vua. Quân này đi theo đường chéo của hình vuông gồm 2 ô cờ. Tượng không được qua sông sang nửa bàn cờ bên đối phương. Chỉ có 7 điểm mà Tượng có thể di chuyển tới.

Tượng sẽ không di chuyển được đến vị trí đã nêu nếu có 1 quân đặt tại vị trí giữa của hình vuông 2 ô. Khi đó ta gọi là Tượng bị cản và vị trí cản được gọi là "mắt Tượng".

Tượng được tính là mạnh hơn Sĩ một chút. Một Tốt qua hà được đổi lấy 1 Sĩ hay Tượng. Tuy nhiên khả năng phòng thủ của Tượng được tính nhỉnh hơn nên nếu Sĩ là 2 thì Tượng là 2,5.

Xe (Xa)

Xe
 
Xe

Quân Xe đi và ăn theo một đường thẳng đứng hoặc ngang khắp bàn cờ miễn là không có quân cản trên đường đi. Xe được coi là quân cờ mạnh nhất, kiêm cả công lẫn thủ (đơn xe sát vạn). Giá trị của Xe thường tính là bằng 2 pháo hoặc pháo mã.

Khai cuộc thường tranh đưa các quân Xe ra các đường dọc thông thoáng, dễ phòng thủ và tấn công.

Pháo

 
Pháo

Quân Pháo đi giống quân Xe, theo chiều thẳng đứng hoặc ngang, nhưng nếu ăn quân thì phải có 1 quân đứng làm "ngòi" (kể cả của mình hay của đối phương).

Cờ tướng cổ đại không có quân Pháo. Các nhà nghiên cứu đều nhất trí là quân Pháo được bổ sung từ thời nhà Đường. Đây là quân cờ ra đời muộn nhất trên bàn cờ tướng vì tới thời đó, pháo được sử dụng trong chiến tranh với hình thức là một loại máy dùng để bắn những viên đá to. Bấy giờ, từ Pháo trong chữ Hán được viết với bộ "thạch", nghĩa là đá. Cho đến đời nhà Tống, khi loại pháo mới mang thuốc nổ được phát minh thì quân Pháo đã được viết lại với bộ "hỏa".

Do đặc điểm phải có ngòi, Pháo thường dùng Tốt của quân mình trong khai cuộc, hoặc dùng chính Sĩ Tượng của mình làm ngòi để chiếu hết tướng đối phương trong cờ tàn. Quân Pháo có quyền lực mạnh ở lúc khai cuộc, lúc bàn cờ còn nhiều quân, nhưng quyền lực của Pháo giảm dần về sau khi số quân làm ngòi giảm bớt.

Trên thực tế thì có tới 70% khai cuộc là dùng Pháo đưa vào giữa dọa bắt tốt đầu của đối phương, gọi là thế Pháo đầu. Đối phương có thể dùng Pháo đối lại cũng vào giữa. Nếu bên đi sau đưa Pháo cùng bên với bên đi trước thì khai cuộc gọi là trận Thuận Pháo, đi Pháo vào ngược bên nhau gọi là trận Nghịch Pháo (hay Liệt Pháo).

 

Quân Mã trong cờ tướng đi theo hình chữ L 2x1, với bước đi thẳng sau đó đi một bước chéo. Nếu khi đi thẳng có 1 ô ở vị trí đó thì Mã không đi được, gọi là Mã bị cản.

 
Nước đi và nước cản của Mã

Mã do không đi thẳng, lại có thể bị cản nên mức độ cơ động của quân này kém hơn Xe và Pháo. Khi khai cuộc, Mã kém hơn Pháo do bị cản nhiều. Khi tàn cuộc, Mã trở nên mạnh hơn Pháo do dễ đi hơn và Pháo thì ít ngòi hơn.

Tốt (Binh)

Tốt
 
Tốt

Quân Tốt có 5 quân giống nhau, chúng đi thẳng và ăn thẳng theo chiều dọc khi ở bên phần đất của bên mình. Khi Tốt qua được sông, chúng có thể đi và ăn theo chiều ngang. Hai tốt qua sông đứng cạnh nhau gọi là tốt huynh đệ và có sức mạnh cỡ một quân pháo hoặc mã.

Khi đi đến đường biên ngang bên phần sân đối phương, lúc này, chúng được gọi là Tốt lụt.

Trong khai cuộc, việc thí tốt là chuyện tương đối phổ biến. Ngoại trừ việc phải bảo vệ tốt ở giữa (còn gọi là tốt đầu), các quân tốt khác thường xuyên bị xe pháo mã ăn mất. Việc mất mát một vài Tốt ngay từ đầu cũng được xem như việc thí quân trong cờ tướng chứ không là "thảm họa" như trong cờ vua.

Đến cờ tàn, giá trị của quân tốt tăng nhanh và số lượng tốt khi đó có thể đem lại thắng lợi hoặc chỉ hòa cờ. Khi đó việc đưa được tốt qua sông và tới gần cung tướng của đối phương trở nên rất quan trọng. Tốt khi đến hàng sát cuối, ép sát cung tướng được coi là mạnh như Xe.

Cách ghi nước đi

Trong các thế cờ, để ghi lại vị trí và sự dịch chuyển quân cờ, người ta thường ghi lại các nước đi như sau:

Mỗi nước được ghi theo thứ tự: số thứ tự nước đi, tên quân cờ, vị trí và sự dịch chuyển quân cờ. Ví dụ, nước đầu, Đỏ đi Pháo 2 bình 5, bên Đen mã 8 tấn 7 thì ghi:

  1. P2-5 M8.7

Nước thứ hai, Đỏ đưa Pháo ở cột 8 lùi 1 bước, Đen đưa Tốt cột 7 lên một bước.

  1. P8/1 B7.1

Nếu Pháo (hay Mã, Xe) nằm trên một đường thì ghi Pt là Pháo trước, Ps là Pháo sau.

Nếu có 3 Tốt nằm trên cùng một cột thì ký hiệu Bt (Binh trước), Bg (Binh giữa), Bs (Binh sau).

Các giai đoạn của một ván cờ

Xiangqi in Kunming.jpg
 

Người ta thường chia ván cờ ra làm ba giai đoạn: khai cuộctrung cuộc và tàn cuộc.

Khai cuộc

Thường khai cuộc được tính trong khoảng 5-12 nước đầu tiên. Các nghiên cứu mới cho biết khai cuộc đóng góp rất quan trọng vào khả năng thắng của một ván cờ. Khai cuộc có thể đóng góp đến 40% trong khi trung cuộc và tàn cuộc đóng góp 30% mỗi giai đoạn.

Có rất nhiều dạng khai cuộc khác nhau, nhưng nói chung, có thể chia khai cuộc thành hai loại chính: khai cuộc Pháo đầu và khai cuộc không Pháo đầu.

Khai cuộc Pháo đầu

Tên của các khai cuộc được đặt tuỳ theo cách đi của bên đi sau, chỉ nêu vài loại chính:

Khai cuộc không Pháo đầu

Trung cuộc

Khai cuộc và tàn cuộc do có vị trí và số lượng quân cờ có thể quy chung về một số dạng chính nên người ta đã nghiên cứu và tổng kết được các dạng như trên. Còn ở trung cuộc, thế cờ lúc này theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên chủ yếu vận dụng các chiến thuật cơ bản như:

Tàn cuộc

Tàn cuộc là giai đoạn tổng số quân cờ, đặc biệt là quân tấn công (Xe, Pháo, Mã, Tốt) cả hai bên còn rất ít.

Các hình thức chơi cờ tướng khác

Cờ thế

 

Chơi cờ thế là hình thức chơi cờ mà bàn cờ lúc ban đầu đã có sẵn các thế cờ, quân cờ đang ở các vị trí như trong một ván cờ dang dở, mức độ thế cờ từ dễ đến khó và người chơi phải thắng được sau một số nước đi được yêu cầu từ trước. Cờ thế hay được thấy ở các lễ hội dân gian.

Cờ bỏi

 

Cờ bỏi cũng là một hình thức đánh cờ, nhưng bàn cờ sẽ là một cái sân rộng có kẻ ô, các quân cờ được ghi lên các tấm biển bằng gỗ, gắn vào các cột dài chừng 1 mét, có đế, được đặt lên các vị trí trên sân. Người đánh phải tự nhấc quân cờ để đi, trước khi đi quân, phải có hiệu lệnh bằng trống bỏi. Từng đôi một vào thi đấu ở sân cờ. Thực chất đây là một bàn cờ lớn và nhiều người có thể cùng xem được.

Cờ người

 

Trong các lễ hội dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ, cờ người là một trong những cuộc thi đấu thu hút được rất nhiều người đến xem và cổ vũ. Thông thường, nơi diễn ra trận cờ người là sân đình của làng. Quân cờ là những nam thanh nữ tú được làng kén chọn, vừa phải đẹp người, vừa phải đẹp nết. Tướng được phục trang như sau: đội mũ tướng, soái, mặc triều phục bá quan văn võ, chân đi hài thêu, lọng che. Sĩ đội mũ cánh chuồn có tua vàng. Mỗi người trong đội cờ cầm một chiếc trượng phía trên có gắn biểu tượng quân cờ được trạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Đội nam mặc áo đỏ, đội nữ mặc áo vàng với thắt lưng theo lối xưa.

Trước khi vào vị trí của mỗi người trên sân cờ, cả đội cờ múa theo tiếng trốngđànphách. Sau khi quân cờ đã vào các vị trí, một hồi trống dài nổi lên, hai đấu thủ cờ mặc áo dài, khăn xếp xuất hiện để được giới thiệu danh tính, mỗi người cầm một cây cờ đuôi nheo ngũ sắc nhỏ để chỉ huy trận đánh. Quanh sân, hàng trong thì khán giả ngồi, hàng ngoài đứng, chăm chú thưởng thức ván cờ và bàn tán râm ran. Khi cờ đến hồi gay cấn, cả sân xôn xao, một nước xuất thần, cả sân đều ồ lên khoái trá. Nếu quân cờ nào đó đi hơi chậm là có tiếng trống bỏi lanh canh vui tai nhắc nhở "cắc...tom tom". Bên lề sân có một cái trống to thỉnh thoảng được gióng lên một hồi điểm cho những nước đi. Khi Tướng bị chiếu, tiếng trống dồn dập, đám đông lại càng đông hơn, đã náo nhiệt lại càng náo nhiệt thêm. Đặc biệt hơn trong một số lễ hội, thỉnh thoảng người ta còn đọc những lời thơ ứng khẩu bình những nước đi trong sân trên chiếc loa ở sân.

Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương có bài thơ vinh cuộc cờ người, có những câu sau:

Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,

Ðốt đèn lên đánh cuộc cờ người.

Hẹn rằng đấu trí mà chơi,

Cấm ngoại thủy không ai được biết.

.....

Khi vui nước nước non non,

Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.

Cờ tưởng

 

Cờ tưởng là hình thức đánh cờ bằng trí tưởng tượng, không nhìn bàn cờ thật. Kiểu chơi này thường đòi hỏi người chơi phải có trình độ cao, nhớ được các nước đi, thế cờ hiện tại. Quốc tế đại sư Tưởng Xuyên của Trung Quốc hiện đang giữ kỷ lục thế giới về cờ tưởng.

Cờ một thế trận

Cờ một thế trận là trong ván cờ, chỉ được chơi một thế trận như: Thuận Pháo, Tiên nhân chỉ lộ, v.v..

Cờ chấp

Trên thực tế có thể phối hợp cả hai loại chấp trên, như chấp Mã và đi trước 2 nước (Mã 2 tiên).

Cờ úp

Cờ úp là hình thức đánh cờ khi mà 15 quân mỗi bên được úp ngược hoặc úp một cái nắp nhựa lên và sắp xếp ngẫu nhiên trừ quân tướng. Khi sắp cờ các quân cờ của mỗi bên xáo trộn ngẫu nhiên, bị úp sau đó sắp theo thế trận cờ tướng thông thường.

Nước đi đầu tiên của quân cờ úp phải tuân theo luật đi của quân cờ tại vị trí mà nó đang chiếm giữ. VD: quân bị úp đang ở vị trí của quân tốt thì phải đi theo nước của quân tốt. Sau khi đi một quân cờ úp thì quân đó sẽ lật ngửa để xem nó là quân nào và từ đó trở đi quân đó đi theo luật của quân cờ ngửa.

Luật bổ sung:

So với cờ tướng thì cờ úp có nước đi phong phú và đa dạng hơn (trong một vài tình huống nguy cấp, chỉ cần mở đúng quân cờ là có thể thay đổi cục diện ván đấu), vì cờ tướng úp có thêm Sĩ và Tượng chiếu bắt tướng được.

Cờ Tam quốc

 

Là loại cờ dành cho 3 người chơi, luật chơi và số quân của mỗi bên như nhau, không khác gì với cờ tướng bình thường. Bàn cờ thường là hình lục giác, bên nào bị mất Tướng trước thì quân bên đó sẽ được sáp nhập vào quân đã chiếm quân đó, nước bị chiếm sẽ bị người chơi của nước chiếm điều khiển tùy ý (tức là một người chơi sẽ có 2 tướng, 4xe,...). Sau khi có 1 nước chiếm được một nước rồi thì quân bên kia sẽ chơi thế trận 1 chọi 2, bên quân chiếm được hai nước nếu bị chiếm một nước thì vẫn có thể sử dụng nước mình đã chiếm mà chơi tiếp.

Thành ngữ trong cờ tướng

 
Chơi cờ tướng tại một công viên ở Trung Quốc
 
Một bàn cờ đá trong sân chơi Trung Quốc

Và còn rất nhiều nữa.

Các câu đối và thơ về cờ tướng

Trải Hạ Thu Đông gặp tiết Xuân về càng phấn chấn

So Cầm Thi Họa thêm bàn Cờ nữa mới thanh cao.

Tiểu liệt, Đại liệt giao tranh kịch liệt

Bình xa, Hoành xa chiến lược cao xa.

...Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ

Kiên quyết không ngừng thế tấn công

Lạc nước hai Xe đành bỏ phí

Gặp thời một Tốt cũng thành công

Vốn trước hai bên ngang thế lực

Mà sau thắng lợi một bên giành

Tấn công phòng thủ không sơ hở

Đại tướng anh hùng mới xứng danh

(Trích bài "Học đánh cờ" trong tập
"Nhật ký trong tù" của Hồ Chí Minh)

Thắt lưng hoa lý mắt câu huyền

Sĩ Tượng gươm trần gác mỗi bên

Em làm bà Tướng lòng anh đó

Anh nguyện xin làm phận Tốt đen.

(Bài "Hội cờ người" của N.V.C)

Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa

Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên

(Thơ Hồ Xuân Hương)

Quan kỳ bất ngữ chân quân tử

Hạ thủ vô hồi đích trượng phu

(Xem cờ không nói mới thật quân tử Nhấc tay không hoãn mới đúng trượng phu)

Đừng quen pháo mạnh vọt ngang cung, 

Mệnh tướng truyền ra sĩ vẫy vùng. 

Voi ngự thân chinh mang mở nước, 

Binh triều ngự giá giục sang sông. 

Xe liên vạn sát kinh tài cả, 

Mã nhựt song trì mặc sức tung. 

Sau trước trong tay rành rỏi nước, 

Cờ cao Hán Tổ dễ đua cùng.

(Vịnh bàn cờ thắng - Trần Cao Vân)

Các nhà vô địch cờ tướng Việt Nam

Kỷ lục cờ tướng

Các giai thoại về cờ tướng

Các danh thủ cờ tướng

Tags : cờ tướng chữ hán gọi là phiên âm trò chơi trí tuệ phổ biến một thể mô phỏng quốc gia mục tiêu tối hậu khác biệt giao điểm thay vì