Danh sách bài viết

Thế giới vĩ mô được cấu thành từ hạt vi mô, vậy tại sao lý thuyết vi mô lại không áp dụng được cho hiện tượng vĩ mô?

Cập nhật: 09/02/2024

Các vật thể vĩ mô có mối liên hệ chặt chẽ với môi trường xung quanh, trong khi các hạt vi mô có thể bị cô lập hoặc bảo vệ. Điều này có nghĩa là trạng thái của các vật thể vĩ mô sẽ thay đổi do tác động của môi trường, trong khi trạng thái của các hạt vi mô có thể không thay đổi.

Tại sao không có sự vướng víu lượng tử trong thế giới vĩ mô?

Sự vướng víu lượng tử là một hiện tượng vật lý kỳ diệu cho thấy có một mối liên hệ giữa hai hoặc nhiều hạt vi mô vượt qua giới hạn thời gian và không gian, chúng có thể ảnh hưởng lẫn nhau ngay cả khi chúng ở xa nhau. Hiện tượng này rất phổ biến trong cơ học lượng tử, nhưng lại hiếm gặp trong thế giới vĩ mô, khiến người ta bối rối: vì thế giới vĩ mô được cấu tạo từ những hạt vi mô, tại sao các định luật về hạt vi mô lại không áp dụng được cho các hiện tượng vĩ mô?

Thế giới vĩ mô được cấu tạo từ những hạt vi mô.
Thế giới vĩ mô được cấu tạo từ những hạt vi mô. (Ảnh minh họa)

Nhiều người hiểu lầm rằng cơ học cổ điển và cơ học lượng tử là hai lý thuyết hoàn toàn khác nhau và không có mối liên hệ nào giữa chúng. Những hiện tượng kỳ diệu trong thế giới vi mô đơn giản là không tồn tại trong thế giới vĩ mô. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, bạn sẽ thấy rằng điều này là có gì đó không đúng.

Vì thế giới vĩ mô cũng bao gồm vô số hạt vi mô nên chúng phải bị hạn chế bởi cơ học lượng tử. Tuy nhiên, cơ học cổ điển khó áp dụng cho chuyển động của các hạt vi mô. Điều này đã được kiểm chứng trong lịch sử phát triển của vật lý học.

Năm 1924, nhà vật lý người Pháp Louis de Broglie đưa ra một giả thuyết táo bạo, ông tin rằng mọi hạt vi mô đều có dạng sóng. Đây là giả thuyết sóng vật chất nổi tiếng. Với sự hình thành và phát triển của cơ học lượng tử, các nhà vật lý dần phát hiện ra rằng bản chất hạt của các hạt vi mô chỉ là bề ngoài, bản chất của chúng thực chất là sóng.

Bản chất sóng là đặc tính cơ bản của các hạt vi mô. Vì vậy, làm thế nào để mô tả bản chất sóng của các hạt vi mô đã trở thành vấn đề cốt lõi của cơ học lượng tử. Vì các hạt đều là sóng nên sóng có dạng sóng và dạng sóng sẽ tiếp tục thay đổi theo thời gian. Chúng ta chỉ cần mô tả dạng sóng phát triển như thế nào theo thời gian là có thể nắm bắt được mô hình chuyển động của các hạt cực nhỏ.

Phương trình Schrödinger
Phương trình Schrödinger.

Phương trình Schrödinger là một mô hình toán học dùng để mô tả sự dao động của các hạt theo thời gian. Tuy nhiên, ngay cả với phương trình Schrödinger, cơ học lượng tử vẫn tồn tại một số vấn đề khó giải thích. Nổi tiếng nhất là bài toán sụp đổ hàm sóng. Mặc dù phương trình Schrödinger có thể tính toán tốt kết quả của sự sụp đổ sóng hạt, nhưng nó không thể giải thích được cơ chế bên trong của sự sụp đổ sóng!

Điều này dẫn đến một trong những hiện tượng bí ẩn nhất trong cơ học lượng tử: nguyên lý bất định. Bất cứ ai quen thuộc với thí nghiệm giao thoa hai khe electron đều biết rằng thí nghiệm này được sử dụng để xác minh tính lưỡng tính sóng-hạt của electron. Nếu chúng ta sử dụng súng điện tử để phát ra các electron qua hai khe ở một khoảng cách nhất định, sau đó chạm tới màn hình phát hiện, chúng ta sẽ thấy các sọc sáng tối xen kẽ xuất hiện trên màn hình phát hiện, giống như sóng nước.

Điều này cho thấy các electron thể hiện sự biến động. Tuy nhiên, nếu đặt thêm một máy dò đằng sau hai khe để xác định xem từng electron đi qua khe nào thì chúng ta sẽ thấy các vân giao thoa biến mất và thay vào đó là hai vân hình nón giống như một viên đạn. Điều này cho thấy các electron thể hiện tính chất hạt.

  Các electron thể hiện cả tính chất sóng và tính chất hạt.
 Các electron thể hiện cả tính chất sóng và tính chất hạt. (Ảnh minh họa).

Điều đáng kinh ngạc hơn nữa là nếu chúng ta chỉ thêm một máy dò vào phía sau một khe chứ không phải khe kia, chúng ta sẽ thấy các vân giao thoa xuất hiện trở lại, nhưng chỉ với một nửa độ sáng. Điều này cho thấy các electron thể hiện cả tính chất sóng và tính chất hạt.

Thí nghiệm này cho chúng ta biết rằng trạng thái của một electron phụ thuộc vào việc chúng ta có quan sát nó hay không và hành vi quan sát được sẽ ảnh hưởng đến hành vi của electron. Trước khi quan sát, electron không có vị trí xác định mà chỉ có xác suất xuất hiện ở một vị trí nhất định.

Đó là lý do tại sao nhiều nhà khoa học tin rằng chúng ta không nên coi độ biến thiên trong phương trình Schrödinger chỉ là một sóng, bản chất của sóng này phải là sóng xác suất, tức là xác suất để một hạt xuất hiện trong một không gian nhất định là ngẫu nhiên. Vì vậy chúng ta có thể mạnh dạn tưởng tượng rằng trong lưỡng tính sóng-hạt của các hạt vi mô, nếu lưỡng tính sóng-hạt giống hạt hơn thì các hạt vi mô sẽ giống vật chất vĩ mô hơn, nếu nó giống sóng hơn thì vi mô các hạt sẽ giống một trạng thái lượng tử hơn.

Vậy tại sao những hiện tượng này trong cơ học lượng tử lại biến mất trong thế giới vĩ mô? Điều này là do có một số khác biệt quan trọng giữa các vật thể vĩ mô và các hạt vi mô khiến cho các tác động của cơ học lượng tử bị che lấp hoặc bị loại bỏ ở quy mô vĩ mô.

Phép đo các vật thể vĩ mô là phép đo các tính chất tổng thể của vật chất.
Phép đo các vật thể vĩ mô là phép đo các tính chất tổng thể của vật chất. (Ảnh minh họa).

Những khác biệt này chủ yếu bao gồm các khía cạnh sau:

  • Thứ nhất, sự khác biệt về số lượng hạt. Các vật thể vĩ mô được cấu tạo từ một số lượng lớn các hạt vi mô, trong khi các hạt vi mô thường chỉ có một số ít hoặc đơn lẻ. Điều này có nghĩa là trạng thái của một vật thể vĩ mô là sự chồng chất trạng thái của vô số hạt vi mô, trong khi trạng thái của một hạt vi mô là riêng lẻ. Vì vậy, trạng thái của các vật thể vĩ mô phức tạp và hỗn loạn hơn, trong khi trạng thái của các hạt vi mô đơn giản và rõ ràng hơn. Điều này làm cho các hiệu ứng của cơ học lượng tử bị mất cân bằng hoặc bị mờ đi trong các vật thể vĩ mô.
  • Thứ hai là sự khác biệt về can thiệp môi trường. Các vật thể vĩ mô có mối liên hệ chặt chẽ với môi trường xung quanh, trong khi các hạt vi mô có thể bị cô lập hoặc bảo vệ. Điều này có nghĩa là trạng thái của các vật thể vĩ mô sẽ thay đổi do tác động của môi trường, trong khi trạng thái của các hạt vi mô có thể không thay đổi. Vì vậy, trạng thái của các vật thể vĩ mô dễ bị phá hủy, khiến cho các tác động của cơ học lượng tử bị loại bỏ hoặc suy giảm trong các vật thể vĩ mô.
  • Cuối cùng là có sự khác biệt về phương pháp đo. Phép đo các vật thể vĩ mô thường sử dụng các đại lượng vật lý vĩ mô, như khối lượng, vị trí, tốc độ, nhiệt độ, v.v., trong khi phép đo các hạt vi mô thường sử dụng các đại lượng vật lý vi mô, như spin, độ phân cực, mức năng lượng, v.v.

Điều này có nghĩa là phép đo các vật thể vĩ mô là phép đo các tính chất tổng thể của vật chất, trong khi phép đo các hạt vi mô là phép đo các tính chất riêng lẻ của vật chất. Điều này dẫn đến việc đo các vật thể vĩ mô không thể phân biệt được các trạng thái vi mô khác nhau và không thể vi phạm bất đẳng thức Bell, điều này khiến cho các hiệu ứng của cơ học lượng tử không thể được kiểm tra hoặc chứng minh trong các vật thể vĩ mô.

Vướng víu lượng tử không chỉ xảy ra ở các hạt cực nhỏ mà là một hiện tượng vật lý phổ quát.
Vướng víu lượng tử không chỉ xảy ra ở các hạt cực nhỏ mà là một hiện tượng vật lý phổ quát. (Ảnh minh họa).

Trên thực tế, trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã thực nghiệm đạt được một số vướng víu lượng tử ở quy mô vĩ mô hoặc siêu vi, chẳng hạn như sự vướng víu của hai tấm màng nhôm hoặc hai màng nhĩ nhôm được đề cập trong bằng chứng thuyết phục về sự vướng víu lượng tử của các vật thể vĩ mô.

Những thí nghiệm này cho thấy sự vướng víu lượng tử không chỉ xảy ra ở các hạt cực nhỏ mà là một hiện tượng vật lý phổ quát có thể quan sát được ở mọi quy mô miễn là đáp ứng một số điều kiện nhất định.

Tóm lại, chúng ta có thể thấy khẳng định không có sự vướng víu lượng tử trong thế giới vĩ mô là không hoàn toàn đúng nhưng cũng không hoàn toàn sai. Nó phản ánh những khác biệt và mối liên hệ giữa cơ học lượng tử và vật lý cổ điển, đồng thời cũng phản ánh nhiều thiếu sót và thách thức trong hiểu biết của chúng ta về thế giới vi mô.


    Nguồn: /

    Dùng AI để tạo ra các loại bia có hương vị hấp dẫn hơn

    Các ngành công nghệ

    Trí tuệ nhân tạo (AI) đang ngày càng đóng vai trò quan trọng, hỗ trợ cho con người trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Giờ đây, các nhà khoa học đang muốn nhờ AI để giúp tạo ra những loại bia ngon hơn.

    Trung Quốc tiến gần hơn chip lượng tử nhờ tạo ra nguồn sáng mới

    Các ngành công nghệ

    Các nhà nghiên cứu Trung Quốc sử dụng loại chất bán dẫn thông thường để tạo ra nguồn sáng lượng tử - thành phần quan trọng để chế tạo chip lượng tử.

    Robot thụ phấn 6 tay hoạt động trong nhà kính

    Các ngành công nghệ

    Nhờ có 6 cánh tay, robot Stickbug có thể thụ phấn cho nhiều bông hoa cùng lúc với tốc độ 1,5 lần thụ phấn mỗi phút.

    Tốc độ 6G trong thử nghiệm mới - nhanh hơn 500 lần so với 5G

    Các ngành công nghệ

    Một tập đoàn gồm các công ty ở Nhật Bản đã chế tạo thiết bị không dây 6G tốc độ cao đầu tiên trên thế giới.

    Robot hình người đa năng tự phát triển đầu tiên của Trung Quốc

    Các ngành công nghệ

    Robot hình người Tiangong cao 1,63 m và nặng 43 kg trình làng tại Khu phát triển kinh tế - công nghệ Bắc Kinh hôm 27/4.

    Tạo ra quần áo, túi xách có thể sạc điện thoại

    Các ngành công nghệ

    Các nhà khoa học Trung Quốc vừa giới thiệu loại túi xách và vải có thể sạc điện thoại vô cùng tiện lợi.

    AI phát hiện 3 bệnh ung thư nguy hiểm chỉ với một giọt máu khô

    Các ngành công nghệ

    Một công cụ mới, với sự trợ giúp của trí tuệ nhân tạo (AI), có thể phát hiện 3 loại ung thư nguy hiểm nhất trong vòng vài phút, chỉ cần một giọt máu khô.

    Các nhà khoa học Hàn Quốc phát triển phương pháp sản xuất nhanh kim cương trong 150 phút

    Các ngành công nghệ

    Các nhà khoa học phát triển quy trình sản xuất kim cương nhân tạo với kim loại lỏng ở mức nhiệt khoảng 1.000 độ C và áp suất thấp.

    Thiết bị sản xuất điện nhiệt hạch đạt nhiệt độ 37 triệu độ C

    Các ngành công nghệ

    FuZe là thiết bị nhỏ giá rẻ có thể đạt nhiệt độ năng lượng nhiệt hạch nhanh chóng và đáp ứng nhu cầu điện của con người trong tương lai.

    Google Maps sắp có tính năng mới siêu hữu ích, không còn lo đi lạc dù đi vào vùng mất sóng

    Các ngành công nghệ

    Với tính năng mới này, người dùng sẽ luôn biết vị trí của mình, không cần lo sợ đi lạc khi mất mạng di động hay đi vào những vùng mất sóng.