Danh sách bài viết

Cấu tạo ty thể

Cập nhật: 25/08/2020

Ty thể được phát hiện và mô tả đầu tiên bởi Altman từ năm 1894 và đến năm 1897. Benda đặt tên là mitochondria.

Ty thể được phát hiện và mô tả đầu tiên bởi Altman từ năm 1894 và đến năm 1897. Benda đặt tên là mitochondria.

Cấu trúc siêu hiển vi của ty thể được Palad nghiên cứu bằng kính hiển vi điện tử vào năm 1952 và Sjostand vào năm 1953.

 Cấu tạo hình thái

Hình dạng chung của ty thể trong các loại tế bào khác nhau thì rất khác nhau và thường có dạng sợi, hạt hoặc cả sợi và hạt trong một tế bào. Ví dụ: trong tế bào gan, ty thể có thể thay đổi từ dạng hạt sang sợi và ngược lại; còn trong tế bào biểu bì ruột, dạng sợi nằm ở phần ngoài, dạng hạt nằm ở phần trong.

Kích thước của chúng cũng rất thay đổi, ở đa số tế bào ty thể có chiều dày tương đối cố định, khoảng 0,5mm, chiều dài thì thay đổi và tối đa là 7mm.

Số lượng ty thể trong các loại tế bào khác nhau thì khác nhau và ở các trạng thái sinh lý khác nhau cũng khác nhau. Ví dụ: trong tế bào gan chuột có đến 2.500, còn trong tinh trùng một số sâu bọ chỉ có 5 - 7 ty thể.

Ty thể được cấu tạo bởi 2 lớp màng giống màng tế bào.

- Màng ngoài: dày 60Å, bảo đảm tính thấm của ty thể.

- Màng trong: dày 60Å. Từ màng trong hình thành nên các mấu lồi ăn sâu vào trong xoang ty thể  gọi là tấm hình răng  lược (crista). Màng trong chia xoang ty thể  thành  2 xoang.

+  Xoang  ngoài  nằm  giữa  màng  trong  mà  màng  ngoài  rộng  khoảng  60  -  80Å  và thông với xoang của các vách răng lược.

+ Xoang trong được giới hạn bởi màng trong và chứa đầy chất nền của ty thể gọi là matrix.

Chất nền thường là đồng nhất, nhưng đôi khi quan sát thấy có các sợi mỏng hoặc các hạt nhỏ có mật độ điện tử cao, các hạt này là nơi đính các cation hai hoá trị, đặc biệt là Mg2+  và Ca2+.

Các tấm hình răng lược là những vách ngăn không hoàn toàn. Số lượng các tấm răng lược không giống nhau ở những tế bào khác nhau và ở các loài khác nhau.

Mặt trong của màng trong có những khối hình cầu đường kính 80 -100Å đính vào bề mặt của tấm hình răng lược nhờ một cái cuống dài 30 -50Å - gọi là hạt cơ bản. Trong một ty thể có tới 104  - 105 hạt cơ bản (Vermander - Moran 1963). Hạt cơ bản có 3 chức năng:

- Thực hiện phản ứng oxy hoá khử, giải phóng e-

- Vận chuyển e- đến để tổng hợp ATP.

- Thực hiện phản ứng phân giải ATP và cung cấp năng lượng cho các hoạt động của tế bào.

Thành phần hoá học

Thành phần hoá học của ty thể chủ yếu gồm:

- Protein chiếm khoảng 60 - 70% trọng lượng khô và tồn tại dưới 2 dạng khác nhau: một  phần  tham  gia  vào  thành  phần  siêu  cấu  trúc  của  ty  thể,  phần  khác  hoà  tan  trong matrix.

- Lipid chiếm khoảng 25 - 30% trọng lượng khô, chủ yếu là các phospholipid và một phần ít cholesterol.

Ngoài ra, trong ty thể có chứa một lượng không lớn ARN (khoảng 0,5 - 3%) và ADN (khoảng 0,024 - 0,34%). Nass (1963, 1964), Lin và Pei (1965) cũng đã tìm thấy glycogen trong ty thể.

Ty thể chứa một số lượng lớn các hệ enzyme tham gia vào quá trình hô hấp của tế bào như: các enzyme citocromoxy d a s e , sucsinatdehydrogentase; các enzyme của dây chuyền điện tử: NADP và NADcitocromcreductase,... Ngoài ra, trong chất nền còn có chứa các enzyme tham gia chu trình acid béo, các enzyme nucleotide khác nhau, các cofecenzyme và các ion vô cơ K+, HPO4-, Mg++, C- -, SO4- -...

Thảo Dương

Nguồn: /