Danh sách bài viết

Vị trí, địa hình, Thủy Văn Và Khí Hậu Lào Cai

Cập nhật: 28/08/2020

Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc vùng trung du và miền núi phía Bắc của Việt Nam, giáp ranh giữa vùng Tây Bắc và vùng Đông Bắc. Phía Bắc Lào Cai giáp Trung Quốc, phía Tây giáp tỉnh Lai Châu, phía đông giáp tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái.

Logo Lao Cai.PNG
Biểu trưng
Tọa độ: 22°22′48″B 104°09′28″
Diện tích 6.383,9 km²
Dân số (2011)  
 Tổng cộng 637.500 người
 Mật độ 100 người/km²
Dân tộc Việt, H'Mông, Tày, Dao, Thái
Hành chính
Quốc gia Cờ Việt Nam Việt Nam
Tỉnh lỵ Thành phố Lào Cai
Phân chia hành chính 1 thành phố
8 huyện
Mã hành chính VN-02
Mã bưu chính 33xxxx
Mã điện thoại 20
Biển số xe 24
Website http://www.laocai.gov.vn/

 

NNU Cotmoc Hakhau.gif
Cột mốc biên giới Việt Nam - Trung Quốc tại cửa khẩu Hà Khẩu, Lào Cai

Lào Cai. là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc vùng trung du và miền núi phía Bắc của Việt Nam, giáp ranh giữa vùng Tây Bắc và vùng Đông Bắc. Phía Bắc Lào Cai giáp Trung Quốc, phía Tây giáp tỉnh Lai Châu, phía đông giáp tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái.

Địa danh

Danh từ "Lào Kay" đã dược người Pháp sử dụng trong các văn bản và con dấu nhưng trong giao tiếp và dân gian người ta vẫn gọi là "Lao Cai". Sau tháng 11 năm 1950, đã thống nhất gọi là Lào Cai cho đến ngày nay

Về nguồn gốc tên gọi này có nhiều cách lý giải

  • Vùng đất phường Cốc Lếu ngày nay xưa kia, có một khu chợ, dần dần người ta mở mang thêm một phố chợ. Vì thế phố chợ đầu tiên này theo tiếng địa phương được gọi là Lão Nhai (老街, tức Phố Cũ). Sau này người ta mở thêm một phố chợ khác gọi là Tân Nhai (新街, Phố Mới ngày nay).
  • Tên gọi Lào Cai bắt nguồn từ tên "Lao Kaù" xuất hiện từ 1872 (tên chiếc pháo hạm của Jeans Dupruis, âm Hán-Việt là Đồ Phổ Nghĩa, theo sông Hồng tiến công ngược lên Vân Nam vào tháng 1 năm 1873).
  • Theo cố giáo sư Đào Duy Anh, từ "Lão Nhai", khi làm bản đồ, người Pháp viết "Lao Cai" thành "Lào Kay". Danh từ "Lào Kay" đã được người Pháp sử dụng trong các văn bản và con dấu còn người Việt khi đọc, biến âm theo tiếng Việt thành Lào Cai và trong giao tiếp và dân gian người ta vẫn gọi là Lao Cai.
     

Tài nguyên

Đất: Lào Cai Có 10 nhóm đất chính, được chia làm 30 loại đất. 10 nhóm đất là: đất phù sa, đất lầy, đất đen, đất đỏ vàng, đất mùn vàng đỏ, đất mùn alit trên núi, đất mùn thô trên núi, đất đỏ vàng bị biến đổi do trồng lúa, đất sói mòn mạnh trơ sỏi đá và đất dốc tụ.

Nước: hệ thống sông suối dày đặc được phân bố khá đều trên địa bàn tỉnh với 2 con sông lớn chảy qua là sông Hồng và sông Chảy bắt nguồn Trung Quốc và hàng nghìn sông, suối lớn nhỏ. Đây là điều kiện thuận lợi cho Lào Cai phát triển các công trình thủy điện vừa và nhỏ. Trên địa bàn tỉnh có bốn nguồn nước khoáng, nước nóng có nhiệt độ khoảng 400C và nguồn nước siêu nhạt ở huyện Sa Pa, hiện chưa được khai thác, sử dụng.

Rừng: 278.907 ha, chiếm 43,87% tổng diện tích tự nhiên, trong đó có 229.296,6 ha rừng tự nhiên và 49.604 ha rừng trồng, rất phong phú cả về số lượng loài và tính điển hình của thực vật. Động vật rừng Lào Cai có 442 loài chim, thú, bò sát, ếch nhái.

Khoáng sản: Lào Cai đã phát hiện được 150 mỏ và điểm mỏ với trên 30 loại khoáng sản, trong đó có một số mỏ chất lượng thuộc loại quy mô lớn nhất nước và khu vực như: mỏ apatit Cam Đường với trữ lượng 2,5 tỷ tấn, mỏ sắt Quý Xa trữ lượng 124 triệu tấn, mỏ đồng Sin Quyền trữ lượng 53 triệu tấn, mỏ Molipden Ô Quy Hồ trữ lượng 15,4 nghìn tấn.

Nguồn: /