Danh sách bài viết

Cách xử trí sốc phản vệ và dị ứng sau tiêm vắc xin

Cập nhật: 18/09/2021

Phản ứng sau tiêm vắc xin thường là các triệu chứng toàn thân kết hợp với biểu hiện trên da như ban đỏ, phù Quincke, mày đay hoặc đường hô hấp gồm viêm mũi - kết mạc, cơn co thắt phế quản.

Theo tài liệu Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị các bệnh về dị ứng - miễn dịch lâm sàng do Bộ Y tế ban hành, tỷ lệ các phản ứng không mong muốn do vắc xin dao động trong khoảng 4,8 đến 83 ca/100.000 liều vắc xin. Trong đó, tỷ lệ các phản ứng dị ứng khoảng 1/50.000 đến 1/100.000 liều tiêm.

Sau khi tiêm vắc xin, cha mẹ cần chú ý đến biểu hiện của trẻ để phát hiện những phản ứng dị ứng nếu có để xử trí kịp thời.
Sau khi tiêm vắc xin, cha mẹ cần chú ý đến biểu hiện của trẻ để phát hiện những phản ứng dị ứng nếu có để xử trí kịp thời. (Ảnh: hanoimoi).

Nghiên cứu cho thấy vắc xin và các thành phần tá dược đều có thể gây ra những tác dụng không mong muốn. Những vắc xin có thành phần bao gồm trứng hoặc gelatine thì phản ứng dị ứng thường nặng và tần suất xuất hiện nhiều hơn. Tuy vậy, sốc phản vệ rất hiếm khi xảy ra, chỉ khoảng 1/1.000.000 liều dùng.

Các biểu hiện phản ứng phụ do vắc xin rất đa dạng nhưng hầu hết khu trú tại chỗ tiêm, là hậu quả của quá trình viêm không đặc hiệu do các thành phần trong vắc xin như muối nhôm. Hiện chưa có bằng chứng khẳng định gia tăng nguy dị ứng vắc xin ở những người có cơ địa dị ứng (atop).

Các phản ứng nhẹ tại chỗ hoặc tình trạng sốt sau tiêm vắc xin thường xảy ra và không có chống chỉ định tiêm những liều chủng ngừa sau. Tuy nhiên, những trường hợp phản ứng dị ứng toàn thân hoặc sốc phản vệ cần được thăm khám, khai thác tiền sử dị ứng, làm test da với vắc xin và thành phần trong văcxin để có thể đưa ra chẩn đoán và quyết định điều trị đúng ở người bệnh có phản ứng tức thì với vắc xin.

So sánh tần suất xuất hiện các tác dụng phụ của một số vắc xin thông thường:

Tần suất xuất hiện các tác dụng phụ của một số vắc xin

Biểu hiện lâm sàng của phản ứng dị ứng vắc xin bao gồm:

Phản ứng tức thì hoặc qua trung gian IgE:

Phản ứng dị ứng với các thành phần của vắc xin có vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt khi sử dụng các vắc xin được nuôi cấy trong môi trường protein từ trứng, men bia rượu và gelatine. Các thành phần khác trong vắc xin như kháng sinh, các chất bảo quản, cố định, các thành phần nhiễm bẩn như latex cũng có thể là yếu tố kích phát hoặc là nguyên nhân của phản ứng dị ứng. Tuy nhiên, các protein trứng, gelatine và latex vẫn là nguyên nhân thường gặp nhất của các phản ứng dị ứng tức thì.

Các dấu hiệu của phản ứng dị ứng tức thì sau tiêm hoặc uống vắc xin thường là các triệu chứng toàn thân kết hợp với biểu hiện trên da như ban đỏ, phù Quincke, mày đay, triệu chứng đường hô hấp như viêm mũi, kết mạc hoặc cơn co thắt phế quản. Bên cạnh đó còn có các biến chứng tim mạch với biểu hiện mệt mỏi, chóng mặt, tụt huyết áp. Thậm chí có thể rơi vào tình trạng sốc trong vòng vài phút.

Các triệu chứng của sốc phản vệ thường xảy ra trong vòng 4 giờ sau tiêm vắc xin. Một bệnh nhân được chẩn đoán nghi ngờ sốc phản vệ khi có ít nhất một trong số 4 dấu hiệu tại các cơ quan sau:

  • Biểu hiện trên da: Mày đay, phù mạch (phù Quincke), ngứa và ban giãn mạch.
  • Đường hô hấp: ngạt mũi, chảy mũi, sung huyết niêm mạc mũi, tiếng thở rít do phù nề hầu họng và thanh quản hoặc các triệu chứng ở đường hô hấp dưới như khò khè, thở rít, tức nặng ngực, thở nông, nặng có thể suy hô hấp.
  • Tim mạch: Hạ huyết áp, nhịp tim nhanh, da tái nhợt, nặng có thể ngừng tim.
  • Biểu hiện dạ dày ruột: Nôn, buồn nôn, đau quặn bụng, nặng có thể đại tiểu tiện không tự chủ.

Phản ứng dị ứng với các thành phần của vắc xin có vai trò hết sức quan trọng.
Phản ứng dị ứng với các thành phần của vắc xin có vai trò hết sức quan trọng.

Các phản ứng tại chỗ và quá mẫn chậm:

  • Các phản ứng chậm với vắc xin thường biểu hiện tại chỗ tiêm. Các phản ứng này không được xếp vào nhóm phản ứng dị ứng mà thường là hậu quả của phản ứng viêm không đặc hiệu do các thành phần như muối nhôm hoặc vi sinh vật gây ra. Chúng thường được gọi là các yếu tố hoạt hóa.
  • Hiện tượng Arthus: Các phản ứng này thường tiến triển sau từ 6 đến 12 giờ với sự có mặt của các kháng thể ở nồng độ cao, thậm chí diễn tiến đến vài ngày sau giống như bệnh huyết thanh. Hậu quả của quá trình viêm cấp tính có thể dẫn đến sự phá hủy tổ chức với một số triệu chứng có cơ chế giống bệnh huyết thanh bao gồm viêm khớp và sốt.
  • Các phản ứng quá mẫn chậm: Các phản ứng qua trung gian tế bào lympho T thường biểu hiện dạng ezema tại chỗ, khởi phát sau từ 2 - 8 giờ đến 2 ngày. Đôi khi phản ứng cũng có thể lan rộng hơn và biểu hiện toàn thân như hồng ban đa dạng, hội chứng AGEP với biểu hiện sốt cao, ban mụn mủ cấp tình toàn thân sau tiêm vắc xin.
  • Các biểu hiện sưng đau tại chỗ cũng có thể xuất hiện và lan rộng nhưng thường tự thoái lui sau từ 2 đến 4 ngày mà không để lại biến chứng gì. Những trường hợp này không có chống chỉ định tiêm vắc xin sau đó. Các vắc xin thường gây ra các phản ứng tại chỗ nặng như vắc xin phế cầu đa giá, cúm, ho gà và đặc biệt là vắc xin phối hợp bạch hầu và độc tố uốn ván, viêm gan siêu vi B. Đáp ứng miễn dịch đối với uốn ván dẫn đến các tác dụng phụ tại chỗ cho khoảng 80% ở người lớn. Khoảng 2% số trẻ em chủng vắc xin phối hợp ho gà và uốn ván (DTaP) có phản ứng tại chỗ.

Các vắc xin thường gây ra các phản ứng tại chỗ nặng như vắc xin phế cầu đa giá, cúm, ho gà...
Các vắc xin thường gây ra các phản ứng tại chỗ nặng như vắc xin phế cầu đa giá, cúm, ho gà...

Điều trị các phản ứng dị ứng sau tiêm vắc xin bao gồm:

Nếu bệnh nhân bị phản ứng dị ứng tại chỗ thì chườm đá tại chỗ tiêm. Trường hợp bị đau nhiều, bác sĩ có thể chỉ định cho dùng paracetamol hoặc ibuprofen. Nếu có biểu hiện dị ứng, ngứa tại chỗ có thể sử dụng kháng histamine đường uống. Khi các triệu chứng thuyên giảm, cần theo dõi người bệnh ít nhất 30 phút tiếp theo.

Nếu bệnh nhân bị phản ứng phản vệ nhẹ với các biểu hiện thường gặp là mày đay và phù mạch (Quincke) thì dùng thuốc kháng histamine. Nếu triệu chứng nặng, toàn thân, bác sĩ có thể cân nhắc dùng thêm corticosteroid.


    Nguồn: /

    Nghiên cứu sự thay đổi hàm lượng RNA, DNA của vi khuẩn phong và mức kháng thể kháng PGL-I ở bệnh nhân phong trong quá trình điều trị đa hóa

    Y tế - Sức khỏe

    Mục tiêu thực sự của kiểm soát bệnh phong là giảm tối thiểu tình trạng tàn tật và biến chứng do bệnh phong gây ra, bằng việc phát hiện bệnh sớm, hóa trị liệu đầy đủ, điều trị phản ứng phong kịp thời và thích hợp. Đa hóa trị liệu (Multidrug Therapy-...

    Thuốc hỗ trợ khôi phục lại tim hiến tặng giúp lưu trữ lâu hơn và cấy ghép an toàn hơn

    Y tế - Sức khỏe

    Cấy ghép nội tạng giúp cứu mạng sống cho nhiều người, nhưng thật không may, cơ quan nội tạng không tồn tại lâu được trong kho bao quản. Giờ đây, các nhà khoa học đã chứng minh được một loại thuốc hiện có có thể khôi phục lại trái tim của người hiến...

    Nghiên cứu cung cấp hiểu biết mới về cách CBD giảm co giật động kinh

    Y tế - Sức khỏe

    Trong suốt 20 năm qua, việc sử dụng cannabidiol (CBD) để điều trị chứng động kinh đã đạt được sức hút lớn, đặc biệt là khi thuốc chống động kinh gặp thất bại. Đặc tính chống co giật của CBD rất nổi tiếng; tuy nhiên, nghiên cứu mới đây đã nêu bật cách...

    Có thể dự đoán trước khả năng mắc chứng rối loạn căng thẳng sau sang chấn

    Y tế - Sức khỏe

    Khi nhắc đến chứng rối loạn căng thẳng sau sang chấn (PTSD), phần lớn các nghiên cứu lâm sàng tập trung vào việc cải thiện tình trạng hơn là dự đoán trước nó. Tuy nhiên, nghiên cứu mới được thực hiện tại Trường Đại học Tufts vừa phát hiện ra một dấu...

    Kính áp tròng cảm ứng vừa theo dõi mắt vừa quản lý bệnh tăng nhãn áp

    Y tế - Sức khỏe

    Những người mắc bệnh tăng nhãn áp nếu không kiểm soát được tình trạng của họ, họ rất có thể sẽ bị mù. Một loại kính áp tròng được thử nghiệm mới có thiết kế hỗ trợ vấn đề này, vừa theo dõi các triệu chứng bệnh tăng nhãn áp vừa tự động giải phóng...

    5 gia vị và tiềm năng dược lý chống ung thư

    Y tế - Sức khỏe

    Ngày nay, các loại gia vị ngày càng được quan tâm không chỉ vì đặc tính ẩm thực mà còn vì những lợi ích sức khỏe tiềm ẩn, bao gồm cả khả năng ngăn ngừa ung thư. Ngày Tết, hãy cùng tìm hiểu về một số loại gia vị có đặc tính dược lý chống ung thư

    Thuốc trừ sâu chlorpyrifos có thể đóng một vai trò trong bệnh béo phì

    Y tế - Sức khỏe

    Bị cấm ở các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu từ năm 2020, thuốc trừ sâu chlorpyrifos, được coi là chất gây độc thần kinh và gây rối loạn nội tiết, cũng sẽ thúc đẩy bệnh béo phì bằng cách làm chậm quá trình đốt cháy calo trong mô mỡ nâu.

    Bệnh tiểu đường: liệu pháp mới sẽ thay đổi cuộc sống của bệnh nhân

    Y tế - Sức khỏe

    Theo Viện Y tế và Nghiên cứu Y tế Quốc gia Pháp (Inserm), khoảng 10% bệnh nhân tiểu đường mắc bệnh tiểu đường loại 1. Điều này là do thiếu insulin - một loại hormone điều chỉnh lượng đường trong máu - của tuyến tụy và thường xuất hiện từ thời thơ ấu...

    Kỹ thuật mới giúp giảm bớt các rủi ro trong điều trị bệnh Parkinson

    Y tế - Sức khỏe

    Việc truyền các xung điện đến các khu vực khác nhau của não đã được áp dụng trong suốt nhiều năm để giúp giảm bớt các triệu chứng của bệnh Parkinson, cũng như một loạt các bệnh khác. Tuy nhiên, phương pháp truyền điện hiện tại liên quan đến việc cấy...

    Vắc-xin và mắc SARS-CoV-2 trước đó mang lại khả năng bảo vệ lâu dài chống lại chủng omicron BA.5

    Y tế - Sức khỏe

    Một nghiên cứu mới được dẫn đầu bởi giáo sư Luís Graça, giám đốc Viện Instituto de Medicina Molecular João Lobo Antunes (iMM, Lisbon) là một cơ sở nghiên cứu liên kết của Đại học Lisbon, ở Lisbon, Bồ Đào Nha cùng đồng nghiệp Manuel Carmo là phó giáo...