Danh sách bài viết

Nghiên cứu sự thay đổi hàm lượng RNA, DNA của vi khuẩn phong và mức kháng thể kháng PGL-I ở bệnh nhân phong trong quá trình điều trị đa hóa

Cập nhật: 14/12/2022

Nghiên cứu sự thay đổi hàm lượng RNA, DNA của vi khuẩn phong và mức kháng thể kháng PGL-I ở bệnh nhân phong trong quá trình điều trị đa hóa

Mục tiêu thực sự của kiểm soát bệnh phong là giảm tối thiểu tình trạng tàn tật và biến chứng do bệnh phong gây ra, bằng việc phát hiện bệnh sớm, hóa trị liệu đầy đủ, điều trị phản ứng phong kịp thời và thích hợp. Đa hóa trị liệu (Multidrug Therapy- MDT) đã mang lại rất nhiều thành công, tuy nhiên số lượng bệnh nhân phong mới vẫn phát hiện hàng năm và tỉ lệ bệnh nhân tàn tật do phản ứng phong vẫn còn cao, gần đây đã phát hiện những trường hợp phong mới là trẻ em đã có tàn tật. Phát hiện sớm phản ứng phong là quan trọng nhất, điều trị bệnh nhân có phản ứng phong kéo dài, tái diễn trong quá trình điều trị gặp khó khăn vì phụ thuộc tình trạng miễn dịch của mỗi bệnh nhân. Chẩn đoán và điều trị bệnh phong tái nhiễm, tái phát, kháng thuốc để ngăn chặn nguy cơ lây lan trong cộng đồng là vấn đề cũng cần quan tâm hiện nay.

Xuất phát từ lý do trên, nhóm nghiên cứu của bà Nguyễn Phúc Như Hà tại Bệnh viện Phong Da liễu TW Quy Hòa đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu sự thay đổi hàm lượng RNA, DNA của vi khuẩn phong và mức kháng thể kháng PGL-I ở bệnh nhân phong trong quá trình điều trị đa hóa” trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2017.

Đề tài nhằm thực hiện các mục tiêu sau: đánh giá sự thay đổi chỉ số hình thái vi khuẩn phong và mức kháng thể kháng: Phenolic - Glycolipid - I (PGL-I) trước, trong và sau sử dụng đa hóa trị liệu; đánh giá sự thay đổi hàm lượng RNA, DNA của gen 16S rRNA và hsp18 của vi khuẩn phong trước, trong và sau sử dụng đa hóa trị liệu; xây dựng bản hướng dẫn điều trị phản ứng phong phù hợp; và tiên lượng bệnh phong kháng thuốc và tái phát.

Trong quá trình điều trị bệnh nhân phong nhóm nhiều vi khuẩn, nhóm nghiên cứu đã sử dụng liệu trình MDT 12 tháng, cho thấy chỉ số vi khuẩn (BI) giảm trung bình 1,47 đơn vị log+ trong 1 năm; chỉ số hình thái (MI) giảm nhanh, trở về 0% trong 6 tháng điều trị đầu. Nồng độ kháng thể kháng PGL-I khác nhau trên từng cá thể, không phụ thuộc BI, MI; có thể rất cao hoặc rất thấp, giảm dần trong quá trình điều trị; Sau 6 tháng điều trị, mức kháng thể giảm khoảng 40% và lúc kết thúc điều trị giảm còn 25% so với mức kháng thể ban đầu; giảm nhanh hơn ở nhóm bệnh nhân khi được điều trị phản ứng phong đồng thời với MDT. Chỉ số BI, MI và mức kháng thể kháng PGL-I cao tại thời điểm chẩn đoán liên quan với khả năng xảy ra phản ứng phong loại II trong quá trình điều trị.

Lượng DNA- PCR M. leprae là giảm dần, đều và rất chậm trong quá trình MDT. Lúc kết thúc điều trị 100% bệnh nhân tại thương tổn vẫn còn dương tính. Tại thời điểm chẩn đoán 100% bệnh nhân có 16S rRNA Dương tính và chỉ 64,3% có mRNA hsp18 Dương tính. Lượng 16S rRNA và mRNA hsp18 là biến đổi trong quá trình điều trị, có thể tăng, hoặc giảm tại một số thời điểm, khác nhau ở mỗi gen, khác nhau trên từng cá thể. Đến kết thúc MDT 12 tháng có 25,5% và 19,1% mẫu mô da còn Dương tính với 16S rRNA và mRNA hsp18 M. leprae.

Sự hiện diện của mRNA hsp18 tại thời điểm chẩn đoán có thể tiên lượng khả năng xảy ra phản ứng phong trong quá trình MDT. Tần suất là 12,8 lần cao hơn so với bệnh nhân có mRNA hsp18 Âm tính (CI: 2,1-93,9). Tồn lưu mRNA hsp18 đến cuối liệu trình MDT liên quan đến tình trạng phản ứng phong loại II kéo dài, tái diễn. Tần suất nguy cơ là OR=13,13 (CI:1,9-115,8).

Đề xuất bổ sung các vấn đề sau thêm vào Hướng dẫn điều trị phản ứng phong của Chương trình phòng chống phong quốc gia:

- Tại cộng đồng: Giám sát chặt chẽ khả năng xảy ra hồng ban nút phong (ENL) ở bệnh nhân có BI cao. Có thể sử dụng ngay liệu trình corticoid tại cộng đồng khi có phản ứng phong mà không biệt phản ứng phong nặng hay nhẹ.

- Tại tuyến chuyên khoa trung ương: Ứng dụng các xét nghiệm cận lâm sàng để theo dõi điều trị và tiên lượng phản ứng phong như: định lượng PGL-I, định lượng mRNA hsp18

Kỹ thuật RT-PCR định lượng mRNA gen 16S rRNA và hsp18 M. leprae có thể sử dụng cho mục đích đánh giá tác động điều trị, xác định tồn lưu vi khuẩn phong còn sống, tiên lượng kháng thuốc và tái phát. Nếu đến thời điểm kết thúc liệu trình đa hóa trị liệu, các trường hợp có ENL kéo dài tái diễn, nếu lượng mRNA hsp18 và/hoặc 16S rRNA vẫn còn Dương tính, tiếp tục điều trị phản ứng phong đồng thời nên kéo dài liệu trình đa hóa trị liệu.

Tại Việt Nam, đây là công trình nghiên cứu đầu tiên trên các ứng dụng RNA đối với Mycobacterium leprae. Kết quả của đề tài là cơ sở triển khai các ứng dụng mới trên các tác nhân gây bệnh khác.

Nguồn: NASATI / N.P.D

Nghiên cứu sự thay đổi hàm lượng RNA, DNA của vi khuẩn phong và mức kháng thể kháng PGL-I ở bệnh nhân phong trong quá trình điều trị đa hóa

Y tế - Sức khỏe

Mục tiêu thực sự của kiểm soát bệnh phong là giảm tối thiểu tình trạng tàn tật và biến chứng do bệnh phong gây ra, bằng việc phát hiện bệnh sớm, hóa trị liệu đầy đủ, điều trị phản ứng phong kịp thời và thích hợp. Đa hóa trị liệu (Multidrug Therapy-...

Thuốc hỗ trợ khôi phục lại tim hiến tặng giúp lưu trữ lâu hơn và cấy ghép an toàn hơn

Y tế - Sức khỏe

Cấy ghép nội tạng giúp cứu mạng sống cho nhiều người, nhưng thật không may, cơ quan nội tạng không tồn tại lâu được trong kho bao quản. Giờ đây, các nhà khoa học đã chứng minh được một loại thuốc hiện có có thể khôi phục lại trái tim của người hiến...

Nghiên cứu cung cấp hiểu biết mới về cách CBD giảm co giật động kinh

Y tế - Sức khỏe

Trong suốt 20 năm qua, việc sử dụng cannabidiol (CBD) để điều trị chứng động kinh đã đạt được sức hút lớn, đặc biệt là khi thuốc chống động kinh gặp thất bại. Đặc tính chống co giật của CBD rất nổi tiếng; tuy nhiên, nghiên cứu mới đây đã nêu bật cách...

Có thể dự đoán trước khả năng mắc chứng rối loạn căng thẳng sau sang chấn

Y tế - Sức khỏe

Khi nhắc đến chứng rối loạn căng thẳng sau sang chấn (PTSD), phần lớn các nghiên cứu lâm sàng tập trung vào việc cải thiện tình trạng hơn là dự đoán trước nó. Tuy nhiên, nghiên cứu mới được thực hiện tại Trường Đại học Tufts vừa phát hiện ra một dấu...

Kính áp tròng cảm ứng vừa theo dõi mắt vừa quản lý bệnh tăng nhãn áp

Y tế - Sức khỏe

Những người mắc bệnh tăng nhãn áp nếu không kiểm soát được tình trạng của họ, họ rất có thể sẽ bị mù. Một loại kính áp tròng được thử nghiệm mới có thiết kế hỗ trợ vấn đề này, vừa theo dõi các triệu chứng bệnh tăng nhãn áp vừa tự động giải phóng...

5 gia vị và tiềm năng dược lý chống ung thư

Y tế - Sức khỏe

Ngày nay, các loại gia vị ngày càng được quan tâm không chỉ vì đặc tính ẩm thực mà còn vì những lợi ích sức khỏe tiềm ẩn, bao gồm cả khả năng ngăn ngừa ung thư. Ngày Tết, hãy cùng tìm hiểu về một số loại gia vị có đặc tính dược lý chống ung thư

Thuốc trừ sâu chlorpyrifos có thể đóng một vai trò trong bệnh béo phì

Y tế - Sức khỏe

Bị cấm ở các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu từ năm 2020, thuốc trừ sâu chlorpyrifos, được coi là chất gây độc thần kinh và gây rối loạn nội tiết, cũng sẽ thúc đẩy bệnh béo phì bằng cách làm chậm quá trình đốt cháy calo trong mô mỡ nâu.

Bệnh tiểu đường: liệu pháp mới sẽ thay đổi cuộc sống của bệnh nhân

Y tế - Sức khỏe

Theo Viện Y tế và Nghiên cứu Y tế Quốc gia Pháp (Inserm), khoảng 10% bệnh nhân tiểu đường mắc bệnh tiểu đường loại 1. Điều này là do thiếu insulin - một loại hormone điều chỉnh lượng đường trong máu - của tuyến tụy và thường xuất hiện từ thời thơ ấu...

Kỹ thuật mới giúp giảm bớt các rủi ro trong điều trị bệnh Parkinson

Y tế - Sức khỏe

Việc truyền các xung điện đến các khu vực khác nhau của não đã được áp dụng trong suốt nhiều năm để giúp giảm bớt các triệu chứng của bệnh Parkinson, cũng như một loạt các bệnh khác. Tuy nhiên, phương pháp truyền điện hiện tại liên quan đến việc cấy...

Vắc-xin và mắc SARS-CoV-2 trước đó mang lại khả năng bảo vệ lâu dài chống lại chủng omicron BA.5

Y tế - Sức khỏe

Một nghiên cứu mới được dẫn đầu bởi giáo sư Luís Graça, giám đốc Viện Instituto de Medicina Molecular João Lobo Antunes (iMM, Lisbon) là một cơ sở nghiên cứu liên kết của Đại học Lisbon, ở Lisbon, Bồ Đào Nha cùng đồng nghiệp Manuel Carmo là phó giáo...