Cập nhật: 09/08/2020
Chúa thứ hai đời hậu Lê, hiệu là Thanh Đô vương, miếu hiệu Văn tổ Nghị vương, quê làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, con trưởng Trịnh Tùng.Năm 1623, trước khi mất, Trịnh Tùng giao binh quyền lại cho ông. Từ đó ông được nối nghiệp chúa. Khi lên ngôi chúa, vua Lê phong ông làm Thái úy Thanh Quốc Công. Tiết chế thủy bộ chư quân.
Trịnh Tráng – Thanh Đô vương (…Đinh Dậu 1657)
Chúa thứ hai đời hậu Lê, hiệu là Thanh Đô vương, miếu hiệu Văn tổ Nghị vương, quê làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, con trưởng Trịnh Tùng.
Năm 1623, trước khi mất, Trịnh Tùng giao binh quyền lại cho ông. Từ đó ông được nối nghiệp chúa. Khi lên ngôi chúa, vua Lê phong ông làm Thái úy Thanh Quốc Công. Tiết chế thủy bộ chư quân.
Lúc bấy giờ con cháu họ Mạc ở Cao Bằng là Mạc Kính Cung tự xưng là Khánh vương từ Thái Nguyên đem quân về đánh phá vùng Gia Lâm và lân cận, nhưng bi ông đánh bại phải rút về Cao Bằng. Sau khi bình định xong họ Mạc, ông đem vua Lê từ Thanh Hóa ra Thăng Long và tự xưng làm Nguyên súy, Thống quốc chính Thanh đô vương. Năm 1625 ông đánh dẹp họ Mạc một lần nữa và bắt giết được Mạc Kính Cung. Từ đó, họ Mạc chỉ còn lại Mạc Kính Khoan ở Cao Bằng phải chịu lệ cống hàng năm.
Thời ông cầm quyền có mấy cuộc chiến tranh lớn với họ Nguyễn ở Đàng Trong, nhưng vẫn không bên nào giành được chiến thắng trọn vẹn.
Ông mất năm Đinh Dậu 1657, ở ngôi chúa được 24 năm.
Nguồn: Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam
Nguồn: /