Danh sách bài viết

Pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo hiện hành và những định hướng trong xây dựng Luật tín ngưỡng, tôn giáo

Cập nhật: 28/12/2017

1. Pháp luật hiện hành về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Hiến pháp năm 1992 quy định về Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước” (Điều 70)  và giao trách nhiệm cho Quốc hội trong việc "quyết định chính sách tôn giáo của Nhà nước" ( khoản 5 Điều 84), Chính phủ có nhiệm vụ “thực hiện chính sách tôn giáo” (khoản 9 Điều 112). 

Theo đó, để thể chế hóa quy định của Hiến pháp về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân và xuất phát từ nhu cầu hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân trong thời kỳ đổi mới cũng như yêu cầu thực hiện công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo bảo đảm quán triệt các nguyên tắc, quy định của Hiến pháp năm 1992, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (thông qua ngày 18/6/2004 và có hiệu lực kể từ ngày 15/11/2004). Để hướng dẫn thi hành Pháp lệnh, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày 01/3/2005 hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh và Nghị định số 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 thay thế Nghị định số 22/NĐ-CP.

Đây là những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay cũng như quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của Chính phủ trong việc tổ chức thực hiện các chính sách tôn giáo. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật khác cũng đã có các quy định điều chỉnh các hoạt động liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo tinh thần của Điều 70 Hiến pháp 1992 như Bộ luật dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật cư trú, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Phòng chống HIV/AIDS...

Nội dung của Pháp lệnh đã quán triệt, thể chế hóa những quan điểm, chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước; kế thừa, phát triển những quy định phù hợp, mang tính khả thi của các văn bản về tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành trước đó cũng như khắc phục những hạn chế, bất cập của các quy định; bảo đảm tính tương thích với luật pháp quốc tế điều chỉnh về quyền con người trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà đặc biệt là những Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Pháp lệnh cũng thể hiện chính sách dân chủ, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc những việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo do các tôn giáo tự giải quyết theo hiến chương, điều lệ của các tôn giáo. Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với việc quản lý các hoạt động tôn giáo được quy định cụ thể theo hướng cải cách các thủ tục hành chính như về thời gian, trình tự, thẩm quyền giải quyết của các cấp chính quyền,... trên cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo hoạt động.

Pháp lệnh và các Nghị định cũng đã quy định cụ thể về sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài với các nội dung như bảo đảm cho người nước ngoài theo học tại các trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo ở Việt Nam, quy định về việc tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo được mời tổ chức, cá nhân là người nước ngoài vào Việt Nam để tiến hành các hoạt động quốc tế liên quan đến tôn giáo; việc giảng đạo tại cơ sở tôn giáo ở Việt Nam của chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài; tôn trọng quyền tự do tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo của cá nhân hoặc sinh hoạt tập trung của người nước ngoài khi vào Việt Nam, Nhà nước tạo điều kiện để người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở tôn giáo như tín đồ tôn giáo Việt Nam. Ngoài ra, Pháp lệnh còn quy định cụ thể việc tham gia hoạt động tôn giáo, khoá đào tạo tôn giáo ở nước ngoài, việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử của tổ chức, cá nhân tôn giáo Việt Nam.

Có thể nhận thấy, hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được hoàn thiện hơn, là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Điều này được minh chứng bởi số lượng tín đồ, chức sắc, số lượng các tổ chức tôn giáo và đời sống sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng sôi động. Về mặt tổ chức, ngoài các tổ chức tôn giáo đã được công nhận từ trước như  Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Công giáo Việt Nam, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), Nhà nước đã lần lượt xem xét và công nhận về tổ chức cho một số tổ chức tôn giáo đủ điều kiện theo quy định pháp luật, trước năm 2006 có 16 tổ chức tôn giáo (thuộc 06 tôn giáo) được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước, đến nay đã có 38 tổ chức tôn giáo được đăng ký hoạt động hoặc công nhận về tổ chức. Điều đó đã làm lành mạnh hoá các quan hệ tôn giáo và hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng của tín đồ và tổ chức tôn giáo, vì lợi ích chung của toàn xã hội trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập và giao lưu quốc tế. So với các văn bản quy phạm pháp luật trước đây, Pháp lệnh và Nghị định số 22/NĐ-CP, Nghị định số 92/2012/NĐ-CP đã thể hiện tinh thần cởi mở, thông thoáng của Nhà nước trong cách ứng xử với các tôn giáo.

2. Những quy định mới của Hiến pháp năm 2013 và yêu cầu xây dựng Luật tín ngưỡng, tôn giáo

Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa và sửa đổi, bổ sung quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như sau:

"Điều 24

1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.

2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật."

Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp quy định: "Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng".

Đây là những sửa đổi, bổ sung rất quan trọng, đặt ra cho việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo cần phải cụ thể hoá các quy định, nội dung, tinh thần của Hiến pháp, bảo đảm hơn nữa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người và phù hợp với Công ước quốc tề về quyền dân sự, chính trị. Theo đó, Luật tín ngưỡng và tôn giáo sẽ được ban hành để thay thế Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và cần bổ sung các nội dung cơ bản, phù hợp với thực tiễn, cụ thể:

- Luật ghi nhận và cụ thể hoá chủ thể của quyền tín ngưỡng, tôn giáo là  "mọi người" mà không chỉ là "công dân". Đồng thời khẳng định rõ quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào của cá nhân, không ai được xâm phạm tới quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và nghiêm cấm ép buộc theo đạo, bỏ đạo hoặc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xâm hại tới Nhà nước, công dân và quyền của tổ chức tôn giáo.

- Bổ sung quy định về  quyền và giới hạn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quy định cụ thể quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bị giới hạn trong những trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng". Quy định này là cần thiết để bảo đảm Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân trong một tổng thể chung về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác. Các quy định này cũng đã được Công ước quốc tế về quyền dân sự chính trị của Liên hợp quốc ghi “quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác” (khoản 3 Điều 18 Công ước).

- Bổ sung quy định về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam, theo đó xác định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của mọi cá nhân, người nước ngoài sinh sống, làm việc tại Việt Nam cũng được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (bao gồm quyền sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại cơ sở tôn giáo hoặc các địa điểm hợp pháp khác; hoạt động tôn giáo của chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài; việc tổ chức cuộc lễ, giảng đạo của người nước ngoài tại cơ sở tôn giáo ở Việt Nam hoặc các địa điểm hợp pháp khác; người nước ngoài theo học tại các trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo ở Việt Nam.

- Quy định cụ thể về trình tự, thủ tục đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận tổ chức tôn giáo, nhất là đối với các tôn giáo mới cần phải đăng ký hoạt động tôn giáo và trách nhiệm bảo đảm tôn trọng, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo mới hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo. Đồng thời, nghiên cứu để quy định hợp lý về các vấn đề thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo (cấp trung ương hoặc trực thuộc); thành lập trường, giải thể trường, mở lớp bồi dưỡng những người chuyên hoạt động tôn giáo; phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, cách chức, bãi nhiệm, thuyên chuyển chức sắc trong tôn giáo; trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết để hạn chế tối đa sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động nội bộ của tổ chức tôn giáo, tôn trọng và bảo đảm quyền tự chủ và quyết định các vấn đề nội bộ của tổ chức tôn giáo.

- Quy định cụ thể các chính sách về tôn giáo thể hiện chủ trương Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện bảo đảm cho các hoạt động tôn giáo vì lợi ích công cộng, lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia  như bảo hộ tài sản hợp pháp của tổ chức tôn giáo; bảo đảm giao quyền sử dụng đất nơi có các công trình do cơ sở tôn giáo sử dụng gồm đất thuộc chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường, tu viện, trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động được sử dụng ổn định lâu dài.

- Quy định rõ chính sách khuyến khích của Nhà nước đối với các hoạt động từ thiện, nhân đạo của các tổ chức tôn giáo, bao gồm hoạt động quyên góp; hoạt động trong các lĩnh vực giáo giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo, bảo trợ xã hội của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo.

- Quy định rõ các hành vi nghiêm cấm và xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; các vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức tôn giáo phải do luật quy định. Đây là một trong những quyền tự do cơ bản nhất của con người, có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp tới các vấn đề tư tưởng của công dân, các vấn đề về phát  huy truyền thống, đạo lý, thuần phong mỹ tục của dân tộc, đất nước, góp phần bảo đảm sự đóng góp tích cực của các tổ chức tôn giáo vào ổn định đất nước, chống mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo để chia rẽ dân tộc, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân.

Nghiên cứu để quy định hợp lý về tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo phù hợp với mô hình, hệ thống tổ chức tương đối phức tạp và khác biệt của các tổ chức tôn giáo, bảo đảm sự thuận lợi trong các giao dịch, quan hệ của tổ chức tôn giáo với các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan tới hoạt động tôn giáo.

 Minh Anh

Nguồn: / 0

Một số vấn đề tư tưởng vua Trần Nhân Tông (P.2)

Tôn giáo

Sự hưng thịnh của Phật giáo cho đến cuối thế kỷ thứ 14, khi nhà Trần đã suy vong, chắc chắn đã xuất phát từ hệ tư tưởng Cư trần lạc đạo vừa nói. Phật giáo không dành riêng cho một bộ phận những người tu hành, cũng chẳng phải riêng một bộ phận quý tộc...

Tìm hiểu đường lối thực hành Thiền phái Trúc Lâm

Tôn giáo

Trước nhất muốn xác định cách tu tập của dòng thiền Trúc Lâm, thì chúng ta ngược dòng lịch sử để dẫn chứng.

Một số vấn đề tư tưởng vua Trần Nhân Tông (P.1)

Tôn giáo

Vua Trần Nhân Tông đã sống cuộc đời oanh liệt và hoành tráng, có những đóng góp to lớn và thiết thực cho dân tộc và Phật giáo. Thế thì, vua đã sống và hành động theo hướng nào, dưới sự tác động của những suy nghĩ tư tưởng gì?

Phật giáo thời Lý và những ảnh hưởng trong đời sống tinh thần ở làng xã

Tôn giáo

Giáo lý Phật giáo đồng nhất bản chất của thế giới vật chất với bản thể con người, do đó, Phật giáo thời Lý có chung một phương pháp khi xem xét con người và xem xét vũ trụ: sự vận động của vũ trụ phải nằm trong trạng thái cân bằng, và vận động của tư...

Thiền Sư Pháp Loa và Pháp Chỉ thẳng

Tôn giáo

Thiền sư Pháp Loa dạy: "Mọi người nếu hướng vào Đệ nhất nghĩa mà nói thì suy nghĩ là sai, mở miệng là lầm. Vậy thì làm sao sinh Đế, làm sao sinh Quán? Nay thử căn cứ vào đầu Đệ nhị mà nói thì cũng chẳng được sao?". Nói về pháp dạy người, thật sự đối...

Những yếu điểm của tư tưởng duy thức (P.2)

Tôn giáo

Vấn đề nhân quả là vấn đề trọng yếu trong tư tưởng Phật giáo và có nhiều người đã giải thích ý nghĩa nhân quả rất tường tận, nhưng đứng về phương diện tư tưởng trong số đó có một ít người giải thích không đúng giá trị của nhân quả. Tư tưởng nhân quả...

Những yếu điểm của tư tưởng duy thức (P.1)

Tôn giáo

Duy thức học là môn học về tâm bắt đầu từ nơi thức, nguyên do tâm chính là bản thể của thức và thức thì được phát sinh từ nơi tâm thể. Tâm thể nếu như không có thì nhất định không có thức và thức thì thuộc về sự tác dụng của tâm thể nên gọi là tâm...

Cõi âm có hay không? Nhận thức của Phật giáo đối với vấn đề này

Tôn giáo

Tôi không thể tin là có một cõi sống đặc biệt dành riêng cho những người đã chết. Nghĩa là có các cõi sống khác nhau, nhưng không có một cõi nào của người đã chết cả. Không thể có cõi sống dành cho những người chết, đó là một mâu thuẫn ngay trong bản...

Giá trị của Khoa học & Quan trọng của Phật giáo (P.4)

Tôn giáo

Điều tối quan trọng, Phật giáo không vì kiến thức văn minh rực rữ của khoa học mà bắc quàng làm sang. Hiển nhiên, khoa học chưa đủ khả năng để chứng minh Phật giáo. Ngược lại, Phật giáo dư trí tuệ để giải thích khoa học bởi vì...

Những đặc điểm của văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam

Tôn giáo

Trong cộng đồng nhân loại, bất cứ chủng tộc nào, có tinh thần độc lập, có ý chí tự cường, có lịch sử đấu tranh lâu dài thì chủng tộc đó nhất định có sáng tạo văn hóa để thích ứng với mọi hoàn cảnh địa lý, với những điều kiện thực tế để tự cường, sinh...