Cập nhật: 19/07/2020
Đạo Jaina là một môn phái đòi hỏi sự tu hành khổ hạnh nhất trong tất cả các tôn giáo tại Ấn Độ. Giáo lý của đạo Jaina cho rằng cách để có được tự do từ vòng luân hồi là sống một cuộc sống tu hành khổ hạnh. Nó cũng chủ trương kiềm chế gây hại cho bất cứ sinh linh nào trong một học thuyết được biết với tên gọi là ahimsa (bất tổn sinh). Đạo Jaina không có một vị thần chính nào những có nhiều vị thần địa diện cho các lĩnh vực khác nhau của đời sống.
Đạo Jaina hiện đại do Vardhamana, còn được gọi là Mahavira sáng lập. Ông được coi là người cùng thời với đức Phật Buddha vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Cả đức Mahavira và đức Phật Buddha đều có dòng dõi quý tộc và đều từ bỏ tất cả của cải quyền lực để sống một cuộc đời tu hành khổ hạnh.
Ba giáo lý cơ bản được gọi là Ba báu vật của dạo Jaina là: lòng tin đúng, hiểu biết đúng và hành xử đúng. Tất cả tín đồ của đạo Jaina đều phải tuân theo năm mahavrata (năm lời thề lớn) đó là: không làm ác, không có tài sản, không nói dối, không trộm cắp và tiết chế nhục dục. Các tín đồ đạo Jaina là những người ăn chay nghiêm ngặt và đòi hỏi phải thực hiện một số nghi thức hành lễ mỗi ngày. Đạo Jaina được chia thành hai hệ phái chính: Digambara (Lõa hình – không mặc quần áo) và Svetambara (Chỉ mặc đồ trắng). Hệ phái Svetambara cử hành một nghi thức được biết là puja, trong đó những người hành lễ làm tám biểu tượng cúng bái trước hình ảnh của một tirthankara (Thầy cả).
Mahavira có 11 môn dồ, mỗi một môn đồ được giao phó một nhóm khoảng 300 đến 500 thầy tu để truyền đạo. Bhadrabahu, người cùng thời với hoàng đế Chandragupta Maurya của đế chế Maurya (khoảng 321 tr.CN – 297 tr.CN) là người truyền đạo vĩ đại nhất của giáo phái này sau đức Mahavira. Sau khi Bhadrabahu qua đời, sự bất đồng nghiêm trọng bắt đầu nổi lên trong cộng đồng đạo Jaina. Một nhóm do Bhadrabahu dẫn đầu di cư về bờ biển phía tây và Deccan còn các nhóm khác lưu lại miền bắc. Các bản kinh của đạo Jaina chứa đựng các bài giảng của đức Mahavira được gọi là Agama và hình thành tài liệu kinh điển của hệ phái Svetambara. Các môn đệ của Mahavira sưu tầm những lời dạy của ông vào các bản kinh và học thuộc lòng chúng để truyền dạy cho các thế hệ sau. Các thầy tu đạo Jaina (cẳ nam lẫn nữ) khòng được phép sở hữu sách thánh như là một phần lời thề của họ về việc không sở hữu và cũng không được phép viết lại chúng. Hàng thế kỷ trôi qua, một vài bản kinh đã bị quên đi hoặc biến đổi. Nhiều thầy tu đạo Jaina chết đi trong trận đói vào khoảng năm 350 tr.CN và mang theo mình nhiều bản kinh đạo Jaina.
Vào giai đoạn Gupta (320 – 550), Gujarat trở thành trung tâm quan trọng nhất của đạo Jaina tại An Độ. Đại hội đồng của đạo Jaina đã cho ghi lại các bản kinh thiêng liêng của mình và lưu giữ tại Valabhi trong bang Gujarat vào khoảng năm 460. Đến thời kỳ Gupta, đạo Jaina cũng đã phổ biến được trên các vùng khác nhau của đất nước, bao gồm Rajasthan.
Dẫu với số lượng tương đối nhỏ, nhưng cộng đồng đạo Jaina mà các tín đồ hầu hết là từ tầng lớp buôn bán, đã có một ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống Ấn Độ. Nhiều biểu tượng nguy nga tráng lệ như là các ngôi chùa và kiến trúc của đạo Jaina tồn tại trong các vùng khác nhau của Ấn Độ. Tuy nhiên, những ngôi đền đẹp nhất của đạo Jaina được tìm thấy tại Ginar, Palitana và núi Abu tại Rajasthan. Các tín đồ đạo Jaina cũng có nhiều đóng góp có giá trị trong văn chương và hội họa.
Trong thế kỷ XX, đạo Jaina Ấn Độ theo cùng những tín đồ miền tây Ấn di cư đến miền đông châu Phi, đặc biệt là Kenya và Uganda. Nhưng nền chính trị bất ổn ở các quốc gia này trong những năm 1960 đã khiến nhiều tín đồ đạo Jaina di chuyển đến Anh, nơi ngôi chùa đạo Jaina đầu tiên bên ngoài lãnh thổ Ân Độ được xây dựng tại Leicester. Sau đó các tín đồ đạo Jaina đến Hoa Kỳ và Canada, nơi đây họ thành công trong việc nắm lấy nghề nghiệp buôn bán truyền thống của mình.
KHÔNG ĐƯỢC PHÉP GIẾT HẠI SÂU BỌ CÔN TRÙNG
Giáo lý không gây tội ác phản ánh trong mọi mặt của đời sống hàng ngày của các tín đồ đạo Jaỉna, từ đi chân không đến chuẩn bị thức ăn theo một cách đảm bảo rằng không một sinh vật sống nào bị hại. Họ không ăn sau khỉ trờỉ tối để tránh vô tình gây hại đến sâu bọ côn trùng. Những người tu hành buộc phải đeo mặt nạ để tránh việc hít phải các cơ thể sống trong không khí.
Trích sách “5000 năm lịch sử và văn hóa Ấn Độ”
Nguồn: / 0