Danh sách bài viết

Tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong pháp luật nước CHXHCN Việt Nam

Cập nhật: 28/12/2017

Ngày 18/11/2016 Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ hai đã thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Luật có 09 chương, 68 điều và sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Nhân dịp này tác giả muốn cùng bạn đọc nhìn lại về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo được quy định trong pháp luật nước CHXHCN Việt Nam để khẳng định chính sách đúng đắn và nhất quán của Nhà nước Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo.

Sau ngày 30/4/1975,  đất nước ta đã hoàn toàn độc lập và đang vững bước tiến lên CNXH, để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, trên cơ sở Hiến pháp 1959 và Sắc lệnh số 234/SL ngày 14/6/1955 về vấn đề tôn giáo, ngày 11/11/1977 Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 297-CP về một số chính sách đối với tôn giáo, Nghị quyết gồm 05 nguyên tắc chung và 06 chính sách cụ thể, khẳng định:

- Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của nhân dân.

- Các nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo đều được hưởng mọi quyền lợi và phải làm mọi nghĩa vụ của người công dân.

- Các tôn giáo và mọi công dân theo đạo hoặc không theo đạo đều bình đẳng trước pháp luật.

- Các tôn giáo phải tuân theo Hiến pháp, pháp luật và chủ trương, chính sách, thể lệ của Nhà nước trong mọi lĩnh vực hoạt động của mình.

- Tín đồ và nhà tu hành được hoạt động tôn giáo bình thường ở những nơi thờ cúng, nhưng phải tôn trọng pháp luật của Nhà nước, không gây trở ngại cho việc giữ gìn trật tự trị an, cho sản xuất và sinh hoạt bình thường của tín đồ.

- Mỗi công dân được tự do tham gia hoặc không tham gia các hoạt động tôn giáo, không ai có quyền cưỡng ép người khác phải tham gia hoặc không được tham gia các hoạt động đó.

- Những nhà tu hành và những người chuyên hoạt động tôn giáo được tự do giảng đạo tại nơi thờ cúng và trong các cơ quan tôn giáo

- Các tôn giáo được mở trường lớp đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo của mình.

- Việc thuyên chuyển những người chuyên hoạt động tôn giáo từ nơi này đến nơi khác phải được sự chấp thuận trước của Ủy ban nhân dân nơi đến.

- Việc phong chức, bổ nhiệm những người chuyên hoạt động tôn giáo (kể cả những người do tín đồ bầu ra) phải được chính quyền chấp thuận trước.

- Những nơi thờ cúng của các tôn giáo được Nhà nước bảo hộ;

-Những nơi thờ cúng đã bỏ không từ lâu không có người tu hành hoặc người chuyên trách, không có nhân dân đến lễ bái thì Ủy ban nhân dân cấp cơ sở có trách nhiệm quản lý, khi cần thiết có thể mượn làm trường học, nơi hội họp v.v… nhưng phải giữ gìn chu đáo, không được dùng vào những việc xúc phạm đến tình cảm và tín ngưỡng của nhân dân; những nơi thờ cúng quá hư hỏng chính quyền muốn dỡ đi thì phải được nhân dân đồng tình và Ủy ban nhân dân cấp trên đồng ý.

- Các tổ chức tôn giáo hoặc người hoạt động tôn giáo trong nước muốn quan hệ với các tổ chức khác, hoặc với người nước ngoài thì phải tuân theo những quy định của Nhà nước về quan hệ với người nước ngoài.

- Các tổ chức tôn giáo được xuất bản những tài liệu tôn giáo và sản xuất những đồ thờ cúng nhưng phải tuân theo chế độ chung của Nhà nước.

- Các hoạt động kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội của tôn giáo phải tuân theo quy định của pháp luật.

- Những kẻ lợi dụng tôn giáo để phá hoại nền độc lập của Tổ quốc, chống lại chế độc xã hội chủ nghĩa, phá hoại khối đoàn kết toàn dân, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, chống lại các chính sách và pháp luật của Nhà nước sẽ bị pháp luật nghiêm trị.

Trong những năm đầu đất nước vừa thống nhất, mặc dù còn rất nhiều khó khăn khi vừa kết thúc chiến tranh, cả nước tập trung cho việc bảo vệ độc lập chủ quyền, ổn định chính trị và phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước vẫn quan tâm đến việc thực hiện chính sách tôn giáo, bảo đảm quyền tự do về tín ngưỡng cho nhân dân. Nội dung cơ bản của Nghị quyết đã thể chế tinh thần Điều 26 Hiến pháp 1959 về quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào và quyền hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước.

Bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với sự đổi mới toàn diện của đất nước trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính sách tôn giáo và quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng được quan tâm đổi mới, thể hiện qua Nghị định số 69/HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng quy định về các hoạt động tôn giáo, Nghị định có 03 chương, 28 điều, trong đó có 05 điều quy định chung và 20 điều quy định cụ thể về hoạt động tôn giáo. Nghị định nêu những quy định chung mang tính nguyên tắc về quyền tự do tín ngưỡng của công dân như sau:

- Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của công dân; nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo hoặc tín ngưỡng.

Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật; được hưởng mọi quyền công dân và có trách nhiệm thực hiện mọi nghĩa vụ công dân.

Các hoạt động tôn giáo phải tuân theo Hiến pháp và Luật pháp của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín đồ được bảo đảm. Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân được khuyến khích.

- Mọi công dân có quyền tự do theo hoặc không theo một tôn giáo, từ bỏ hoặc thay đổi tôn giáo. Mọi hành vi vi phạm quyền tự do đó đều bị xử lý theo pháp luật.

Tín đồ có quyền thực hiện các hoạt động tôn giáo không trái với chủ trương chính sách và luật pháp của Nhà nước; có quyền tiến hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo tại nơi thờ tự. Không được truyền bá mê tín dị đoan, không cản trở việc lao động sản xuất, học tập và thi hành nghĩa vụ công dân.

Mọi hoạt động mê tín dị đoan bị bài trừ. Mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để phá hoại nền độc lập dân tộc, chống lại Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân, làm hại đến nền văn hoá lành mạnh của dân tộc, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân đều bị xử lý theo pháp luật.

Ngoài những quy định cụ thể về hoạt động tôn giáo, hoạt động xã hội, hoạt động quốc tế của tổ chức, cá nhân tôn giáo vẫn được bảo đảm như quy định của Nghị quyết 297-CP, từ thực tế nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân, Nghị định còn quy định những trường hợp đặc biệt như: Ở các khu vực dân cư đã ổn định và vùng kinh tế mới, nếu các tín đồ có nhu cầu xin xây dựng nơi thờ tự thì phải xin phép Uỷ ban Nhân dân tỉnh hoặc cấp hành chính tương đương xem xét, quyết định.

Nghị định số 69/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định về các hoạt động tôn giáo là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên về tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới, Nghị định đã quy định rõ hơn quyền và nghĩa vụ công dân trong lĩnh vực tín ngưỡng, từng bước đáp ứng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.

Thể chế Điều 70 Hiến pháp năm 1992 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, ngày 19/4/1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 26/1999/NĐ-CP về các hoạt động tôn giáo thay thế Nghị định số 69/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng. Nghị định có 03 chương, 29 điều, trong đó có 05 điều quy định chung, 21 điều quy định cụ thể về hoạt động tôn giáo. Về nguyên tắc, cơ bản Nghị định 26 giữ nguyên những quy định về quyền tự do tín ngưỡng như quy định của Nghị định 69/HĐBT, chỉ thay đổi cách diễn đạt và bổ sung một số nội dung. Ngoài những quy định về quyền của công dân, của tổ chức tôn giáo như các văn bản pháp luật trước, Nghị định đã quy định về quyền được hoạt động hợp pháp và được pháp luật bảo hộ của các tổ chức tôn giáo có tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo, cơ cấu tổ chức phù hợp với pháp luật, cụ thể:

-Tổ chức tôn giáo có tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo, cơ cấu tổ chức phù hợp với pháp luật và được Thủ tướng Chính phủ cho phép hoạt động thì được pháp luật bảo hộ.

            Ngày 18/6/2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo số 21/2004/PL-UBTVQH11, Pháp lệnh có hiệu lực thi hành từ ngày 15/11/2004. Pháp lệnh có 6 chương, 41 điều, trong đó có 08 điều về nguyên tắc và 29 điều quy định cụ thể về hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên về tín ngưỡng, tôn giáo do UBTVQH ban hành, là dấu mốc quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới. Nội dung của Pháp lệnh đã khẳng định tính nhất quán của Nhà nước CHXHCN Việt Nam trong việc thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Pháp lệnh quy định cụ thể hơn về các quyền của người có tín ngưỡng, tín đồ, chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong việc xây dựng và thực hiện, giám sát thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, cụ thể một số nội dung như:

-Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

-Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.

-Công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như công dân có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau.

-Chức sắc, nhà tu hành và công dân có tín ngưỡng, tôn giáo được hưởng mọi quyền công dân và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân.

-Chức sắc, nhà tu hành có trách nhiệm thường xuyên giáo dục cho tín đồ lòng yêu nước, thực hiện quyền, nghĩa vụ công dân và ý thức chấp hành pháp luật.

-Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo.

-Trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, người có tín ngưỡng, tín đồ có trách nhiệm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật.

-Nhà nước bảo đảm quyền hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật; chức sắc, nhà tu hành được thực hiện lễ nghi tôn giáo trong phạm vi phụ trách, được giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở tôn giáo.

Đặc biệt, Pháp lệnh đã cụ thể hóa các điều kiện để một tổ chức được công nhận là tổ chức tôn giáo; quy định thông thoáng hơn các văn bản trước về một số hoạt động tôn giáo, coi đó là công việc nội bộ của tổ chức tôn giáo để giảm bớt thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo như việc đi tu, việc phong chức, phong phẩm, thuyên chuyển chức sắc, nhà tu hành…

Ngày 18/11/2016, Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ hai đã thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Luật sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có 09 chương, 68 điều, trong đó có một chương quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của tổ chức, cá nhân có tín ngưỡng, tôn giáo, bao gồm cả người Việt Nam, người nước ngoài cư trú hợp pháp ở Việt Nam và những người bị hạn chế quyền công dân. Đây là một trong những điểm mới của Luật so với Pháp lệnh, Luật đã cụ thể hóa quy định tại Điều 24 Hiến pháp 2013 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người thay vì của công dân như quy định tại Hiến pháp 1992. Một số nội dung cụ thể về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được quy định như sau:

-  Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

- Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo.

- Mỗi người có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo. Người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

- Chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác.

- Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo.

- Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có quyền:

Sinh hoạt tôn giáo, tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; Sử dụng địa điểm hợp pháp để sinh hoạt tôn giáo tập trung; Mời chức sắc, chức việc, nhà tu hành là người Việt Nam thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo; mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài giảng đạo; Vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng về tôn giáo của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; Mang theo xuất bản phẩm tôn giáo, đồ dùng tôn giáo để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tôn giáo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được giảng đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác ở Việt Nam.

Ngoài những quy định mang tính nguyên tắc về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như trên, Luật còn quy định cụ thể về hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân, về pháp nhân của tổ chức tôn giáo, về quyền tham gia các hoạt động xã hội, đặc biệt Luật đã quan tâm quyền được tập trung sinh hoạt tôn giáo không chỉ cho những người chưa có tổ chức tôn giáo mà còn bảo đảm cho tín đồ các tôn giáo ở những nơi chưa có tổ chức tôn giáo trực thuộc. Các quy định của Luật đều hướng tới việc bảo đảm hơn nữa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt trận và các tổ chức thành viên trong việc tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Tròn 39 năm, kể từ Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ về một số chính sách đối với tôn giáo ban hành ngày 11/11/1977 cho đến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 18/11/2016, Nhà nước CHXHCN Việt Nam luôn thực hiện nhất quán nguyên tắc “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết” đã được Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tuyên bố từ ngày thành lập nước tháng 9/1945. Các văn bản quy phạm pháp luật dù được ban hành bằng hình thức nào, trong hoàn cảnh lịch sử nào cũng đều nhằm hướng tới việc hoàn thiện pháp luật trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, một trong những quyền cơ bản của con người.

Luật Tín ngưỡng, tôn giáo sẽ có hiệu lực thi hành sau một năm và trong quá trình thực hiện chắc chắn sẽ tiếp tục được điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện hơn nữa pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện đúng nguyên tắc Hiến định: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”!

Nguyễn Khắc Huy

Nguồn: / 0

Một số vấn đề tư tưởng vua Trần Nhân Tông (P.2)

Tôn giáo

Sự hưng thịnh của Phật giáo cho đến cuối thế kỷ thứ 14, khi nhà Trần đã suy vong, chắc chắn đã xuất phát từ hệ tư tưởng Cư trần lạc đạo vừa nói. Phật giáo không dành riêng cho một bộ phận những người tu hành, cũng chẳng phải riêng một bộ phận quý tộc...

Tìm hiểu đường lối thực hành Thiền phái Trúc Lâm

Tôn giáo

Trước nhất muốn xác định cách tu tập của dòng thiền Trúc Lâm, thì chúng ta ngược dòng lịch sử để dẫn chứng.

Một số vấn đề tư tưởng vua Trần Nhân Tông (P.1)

Tôn giáo

Vua Trần Nhân Tông đã sống cuộc đời oanh liệt và hoành tráng, có những đóng góp to lớn và thiết thực cho dân tộc và Phật giáo. Thế thì, vua đã sống và hành động theo hướng nào, dưới sự tác động của những suy nghĩ tư tưởng gì?

Phật giáo thời Lý và những ảnh hưởng trong đời sống tinh thần ở làng xã

Tôn giáo

Giáo lý Phật giáo đồng nhất bản chất của thế giới vật chất với bản thể con người, do đó, Phật giáo thời Lý có chung một phương pháp khi xem xét con người và xem xét vũ trụ: sự vận động của vũ trụ phải nằm trong trạng thái cân bằng, và vận động của tư...

Thiền Sư Pháp Loa và Pháp Chỉ thẳng

Tôn giáo

Thiền sư Pháp Loa dạy: "Mọi người nếu hướng vào Đệ nhất nghĩa mà nói thì suy nghĩ là sai, mở miệng là lầm. Vậy thì làm sao sinh Đế, làm sao sinh Quán? Nay thử căn cứ vào đầu Đệ nhị mà nói thì cũng chẳng được sao?". Nói về pháp dạy người, thật sự đối...

Những yếu điểm của tư tưởng duy thức (P.2)

Tôn giáo

Vấn đề nhân quả là vấn đề trọng yếu trong tư tưởng Phật giáo và có nhiều người đã giải thích ý nghĩa nhân quả rất tường tận, nhưng đứng về phương diện tư tưởng trong số đó có một ít người giải thích không đúng giá trị của nhân quả. Tư tưởng nhân quả...

Những yếu điểm của tư tưởng duy thức (P.1)

Tôn giáo

Duy thức học là môn học về tâm bắt đầu từ nơi thức, nguyên do tâm chính là bản thể của thức và thức thì được phát sinh từ nơi tâm thể. Tâm thể nếu như không có thì nhất định không có thức và thức thì thuộc về sự tác dụng của tâm thể nên gọi là tâm...

Cõi âm có hay không? Nhận thức của Phật giáo đối với vấn đề này

Tôn giáo

Tôi không thể tin là có một cõi sống đặc biệt dành riêng cho những người đã chết. Nghĩa là có các cõi sống khác nhau, nhưng không có một cõi nào của người đã chết cả. Không thể có cõi sống dành cho những người chết, đó là một mâu thuẫn ngay trong bản...

Giá trị của Khoa học & Quan trọng của Phật giáo (P.4)

Tôn giáo

Điều tối quan trọng, Phật giáo không vì kiến thức văn minh rực rữ của khoa học mà bắc quàng làm sang. Hiển nhiên, khoa học chưa đủ khả năng để chứng minh Phật giáo. Ngược lại, Phật giáo dư trí tuệ để giải thích khoa học bởi vì...

Những đặc điểm của văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam

Tôn giáo

Trong cộng đồng nhân loại, bất cứ chủng tộc nào, có tinh thần độc lập, có ý chí tự cường, có lịch sử đấu tranh lâu dài thì chủng tộc đó nhất định có sáng tạo văn hóa để thích ứng với mọi hoàn cảnh địa lý, với những điều kiện thực tế để tự cường, sinh...